Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời của người biên tập

27/11/201309:51(Xem: 19902)
Lời của người biên tập

Lời của Người Biên Tập
Những kỷ niệm về bà Nội của tôi

Bản Việt dịch: TK. Thích Nguyên Tạng
Diễn đọc: Pt Quảng An







Kỷ niệm đầu tiên của tôi về bà Nội là khi tôi được bảy tuổi. Đó là năm 1959, khi tôi đang học ở St. Joshep’s College, một trường của Dòng Tên thuộc Thiên Chúa Giáo ở Darjeeling, Ấn Độ. Một hôm hiệu trưởng của trường là linh mục Stanford gọi tôi vào văn phòng của ông và nói: “Cậu bé, hôm nay là một ngày lịch sử. Cha mẹ cậu xin phép tôi cho cậu về nhà để ra ga xe lửa Siliguri đón Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài sẽ qua đó”. Đó là lần đầu tiên tôi được biết gia đình của mình là một gia đình đặc biệt.

Khi đến ga xe lửa, chúng tôi phải lách qua đám đông tụ tập để chào đón và chiêm ngưỡng Đức Đạt Lai Lạt Ma vừa mới trốn khỏi Tây Tạng và đến tị nạn ở Ấn Độ. Lúc đó tôi biết rằng mình là một phần của một sự kiện quan trọng. Đức Đạt Lai Lạt Ma là chú của tôi và tôi chưa bao giờ gặp Ngài trước đây. Mọi người xem Ngài như một vị Phật sống, và gọi bà Nội tôi là Gyayum Chemo, hay Mẹ Lớn. Bà có dáng điệu cao quý và nồng ấm phù hợp với danh hiệu đó. Chúng tôi gọi Bà là Mola (‘momo’ và ‘la’ là tên gọi tôn kính để gọi bà Nội hay bà Ngoại).

Khi mới đến Ấn Độ, Mola ở cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma ở thị trấn Mussoorie, sau đó bà Nội chuyển tới ở với chúng tôi ở Darjeeling. Bà thích ứng với đời sống ở Ấn Độ một cách bình thản và kiên nhẫn, vốn là những đức tính đã giúp Bà trải qua bao nhiêu thăng trầm. Bà luôn có mục đích sống rõ rệt, đó là chăm sóc và hướng dẫn con cháu của mình.

Qua chiến tranh, gian khó, bệnh tật và chết chóc, và dù có những bất lợi về chính trị và biên giới quốc gia, Bà vẫn là tảng đá lớn để gia đình của Bà bám vào. Bà là bến bờ yêu thương và luôn luôn an toàn.

Bà Nội là người dễ dãi và tử tế, nhưng cũng rất kỹ càng trong việc nuôi dạy các cháu của mình. Bà bắt chúng tôi phải ăn uống đúng cách, tức là ăn những món ăn của tỉnh Amdo, quê hương của Bà ở miền đông Tây Tạng, nơi Mẹ của Bà đã dạy Bà nấu ăn; Bà cũng dạy tất cả chúng tôi nấu ăn. Bà thường sửa soạn những bữa ăn và nướng bánh mì cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng đồng thời Bà cũng dạy cho các thị giả của Ngài làm những món ăn của Amdo. Cho đến ngày nay Ngài vẫn dùng những món ăn mà Bà đã làm cho Ngài lúc Ngài còn nhỏ.

Bà Nội cũng giữ gìn những truyền thống và lễ nghi tôn giáo. Vào dịp Tết Nguyên Đán mọi người mặc quần áo mới và đẹp nhất. Khi còn nhỏ tôi thích mặc áo gấm “chuba” mà Mola gởi cho chúng tôi từ Tây Tạng. Nhưng sau năm 1959 khi người Tây Tạng kéo qua Ấn Độ, không có tiền hay tài sản gì cả, bà Nội bảo chúng tôi đừng mặc quần áo đẹp trong ngày tết nữa, nên thông cảm hoàn cảnh của những người tị nạn đó. Chúng tôi chỉ mặc vài bộ đồ mới và không phô trương những đồ trang sức đẹp.

Gyalo Thondup

Cha tôi, Gyalo Thondup & Đặng Tiểu Bình


Cha tôi, Gyalo Thondup, đã trở thành người anh cả trong gia đình, sau khi ông Nội qua đời. Ông là một trong những người chính yếu giúp Đức Đạt Lai Lạt Ma trốn khỏi Tây Tạng. Bà Nội nói với tôi rằng: Sau cha tôi, tôi sẽ là người gìn giữ danh tiếng của gia đình và đó là một bổn phận quan trọng. Đó là những truyền thống mà bây giờ tôi trao cho con gái của tôi. Đây có vẻ là những điều nhỏ mọn, nhưng tôi tin rằng chúng là những giá trị tạo thành một cá tính mạnh mẽ.

Bà Nội không chỉ chăm lo cho gia đình của mình mà còn nghĩ đến tất cả mọi người khác, dù là bạn bè, viên chức chính phủ hay thường dân. Nếu trông thấy những người Tây Tạng nghèo ở ngoài cửa sổ, Bà sẽ gọi họ đi vô trong nhà, nhìn mặt họ rồi hỏi “Tại sao mấy người có vẻ buồn quá vậy?”. Họ thường trả lời rằng họ không có tiền, và tức khắc bà Nội đặt vào tay họ một món tiền.

Mỗi sáng sớm nhiều người đứng xếp hàng ở cửa sau nhà chúng tôi để xin thực phẩm. Chúng tôi giữ những thùng gạo, bột mì và chúng tôi cho mỗi người một phần để dùng trong ngày. Những năm đầu tiên ở Ấn Độ, đó là thời kỳ khó khăn, và bà Nội đã làm hết sức trong khả năng của mình để giúp đỡ mọi người.

Một viên chức của chính phủ Hoa Kỳ ở cạnh nhà chúng tôi trong những năm tháng đó. Tôi tình cờ gặp lại ông ta vào năm 1979 ở Mỹ, và ông đã nói về bà Nội của tôi. Ông kể lại rằng khi vợ ông sinh đứa con đầu lòng, bà Nội đã nấu món canh gà rồi đưa qua cho bà ta. Tháng đầu tiên sau khi sinh đẻ người ta phải cẩn thận giữ gìn sức khỏe của mình. Người Mỹ này không bao giờ quên lòng tốt của bà Nội đối với một người mà Bà chưa hề quen biết.

Mọi người đều kính trọng bà Nội vì Bà không bao giờ tự cao mà cũng không bao giờ tự hạ mình trước người khác. Bà luôn luôn đối xử với mọi người một cách hiểu biết. Cả những người giúp việc trong nhà cũng yêu kính Bà. Bà không bao giờ ngồi một chỗ ra lệnh, mà tự tay làm công việc và hướng dẫn họ làm việc.

Bà Nội là người mộ đạo. Việc đầu tiên Bà làm vào mỗi buổi sáng là lễ Phật, tụng kinh cầu nguyện và dâng cúng các vị thần Thổ địa. Bà là tấm gương sáng ngời hướng dẫn chúng tôi những giáo lý căn bản trong đời sống tâm linh. Tôi có một bể cá kiểng, và nuôi cá bằng trùn đất. Bà Nội dạy để cho loài thú ăn thịt lẫn nhau là tội lỗi, vì vậy sau đó tôi chỉ cho cá ăn thực phẩm khô để tránh phạm tội tự tay sát sanh.

Bà Nội cũng thích cá. Bà và tôi thường ngắm cá kiểng cùng với nhau và đặt tên cho chúng. Bà nhận xét tính nết của mỗi con cá. Con nào dữ và con nào hiền. Bà dạy chúng tôi hiểu biết về đời sống.

Từ tháng ba đến tháng mười một chúng tôi đi học ở trường nội trú. Cuối năm học, cả nhà đi tới Calcutta để nghỉ mùa đông. Đã hơn sáu mươi tuổi nhưng bà Nội vẫn là người cởi mở và thích vui chơi. Bà đưa chúng tôi đi chơi và thưởng thức những món ăn Ấn Độ bán rong ở ngoài đường. Bà thích xem chiếu bóng và thường dẫn chúng tôi đi xem với Bà. Bà đặc biệt thích phim tình cảm ca vũ nhạc Ấn Độ. Tất nhiên phim Ấn Độ nói tiếng Hindi nên Bà không hiểu những lời đối thoại, nhưng chúng tôi giải thích tình tiết trong phim cho Bà.

Bà là người kể chuyện rất hay. Bà thích làm cho chúng tôi sợ bằng sách kể chuyện ma mèo ăn cắp của người giàu rồi mang cho người nghèo. Bác Thubten Jigme Norbu của tôi đã đi Hoa Kỳ để dạy ở Đại Học Indiana. Khi bà Nội đi thăm Bác ở đó, Bà thích xem những phim kinh dị trên truyền hình Mỹ.

NorbuandbrotherDalaiLama

Bác Norbu & Đức Đạt Lai Lạt Ma

Mỗi khi em trai của tôi và tôi cãi nhau, bà Nội lại can và phân xử ai phải ai trái. Chúng tôi tôn trọng quyết định của Bà vì Bà luôn luôn công bằng. Bà không bao giờ bắt chúng tôi phải nghe lời Bà hay phải làm một việc gì cho Bà. Tình cảm nồng ấm của Bà làm cho chúng tôi cảm thấy an toàn.

Bà Nội có một cái tủ lớn đựng những món đồ của Bà. Bà xếp đặt mọi thứ cẩn thận và ngăn nắp. Ở trong ngăn kéo của cái tủ luôn luôn có kẹo bánh cho các cháu của Bà. Khi nào muốn ăn cái gì chúng tôi xin là Bà sẽ cho ngay.

Tôi khâm phục sức mạnh thể chất cũng như sức mạnh tâm linh của bà Nội. Chúng tôi xây một căn nhà mới có nhiều bậc cấp dẫn xuống sân nhà. Một hôm bà trợt chân té xuống chín mười bậc. Chúng tôi chạy tới, thấy Bà nằm ở dưới đất. Bà đã già và bị thương ở lưng, nhưng ngay lúc đó Bà đứng dậy nói “Bà không sao cả”. Bà cảm thấy đau rất ít. Bà ít khi bị bệnh và Bà biết giữ gìn sức khỏe rất tốt. Nhiều người con của Bà đã chết non nhưng Bà luôn luôn cố gắng chịu đựng những nỗi đau này. Bà Nội đã sinh hạ đến mười sáu người con, nhưng chỉ có bảy người còn sống.

Bà Nội đã làm việc nặng nhọc suốt đời Bà và không thích rảnh rỗi. Khi Bà ở Lhasa và có thai, Bà thường tập thể dục bằng cách leo lên trên mái nhà, ôm một tảng đá đi tới đi lui. Bà nói với chúng tôi “Các cháu hư hỏng rồi, các cháu không biết làm những việc nặng nhọc”.

Vào đầu thập niên 1960 chúng tôi lập một văn phòng Tây Tạng ở Geneva, Thụy Sĩ và Lobsang Samten, anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma và là chú của tôi, làm đại diện của Tây Tạng ở đó. Bà Nội đã tới đó ở một thời gian với gia đình của ông. Sau đó Bà tới Bloomington, Indiana, Hoa Kỳ thăm gia đình bác Norbu, anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma và cha tôi. Bà đi thăm lần lượt các con cháu của mình, kể cả Đức Đạt Lai Lạt Ma ở thủ phủ lưu vong Dharamsala và chúng tôi ở Darjeeling. Tất cả chúng tôi đều sung sướng được gặp lại Bà vì chúng tôi thích ở cùng Bà. Bà không bao giờ mắng hay chê trách ai. Uy quyền tự nhiên của Bà làm cho mọi người kính trọng Bà.

Cha tôi đã rời Tây Tạng đến Trung Quốc vào năm ông mới mười sáu tuổi. Ông muốn học chữ và học ngành hành chánh. Ở đó ông cưới một cô gái Trung Hoa, Mẹ của tôi, và vì người Tây Tạng nói chung không ưa người Trung Hoa nên bà Nội khuyên cha tôi không nên trở về Tây Tạng với người vợ của mình. Cha mẹ tôi đã đi tới Ấn Độ và sống ở đó. Ở Ấn Độ chị của tôi được sinh ra năm 1950, năm 1952 tôi chào đời, rồi tới em trai của tôi, 1954.

Bà Nội tôi rất dễ dãi và cởi mở với Mẹ tôi. Dù có sự nghi kỵ lâu đời giữa người Tây Tạng và người Trung Hoa, bà Nội và Mẹ tôi vẫn hợp với nhau. Bà Nội đã cho con gái út và các cháu đi học ở Ấn Độ, nơi Mẹ tôi trông coi họ. Mẹ tôi là một người đàn bà tân thời, có học và quản lý gia đình và nuôi dạy các con theo những phương cách xa lạ đối với bà Nội, nhưng bà Nội chấp nhận những gì Mẹ tôi làm và hết sức giúp đỡ bà. Bà Nội thấy rằng Mẹ tôi có thể trông coi sáu đứa trẻ như con của mình và dạy bảo cho chúng ngoan ngoãn. Tôi không bao giờ nghe thấy một lời nói chê trách hay tức giận nào giữa Nội và Mẹ, và cũng không bao giờ cảm thấy có một chút hờn giận nào giữa hai người.

Mẹ tôi cũng là một người cao quý, thuộc một gia đình danh tiếng ở Trung Quốc. Cha của bà là một viên tướng của Thống Chế Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa Dân Quốc). Bà đã học đại học và chuẩn bị du học ở Hoa Kỳ khi gặp và kết hôn với cha tôi. Bà đã chứng tỏ mình không chỉ là một người vợ và một người mẹ tốt mà còn là một công chức có năng lực.

Diki Tsering 2a

Bà Diki Tsering và các con


Năm 1959, khi người tị nạn Tây Tạng bắt đầu đến Ấn Độ, Mẹ tôi nghĩ rằng nên cần phải giúp họ có thể sống tự túc. Với tiền bán vé của một trận bóng đá gây quỹ từ thiện, bà đã mua một miếng đất của Dòng Tên và xây dựng một trung tâm tự lực. Ở đó Mẹ tôi làm việc cần mẫn mỗi ngày và vào lúc bà qua đời vào năm 1986, có gần sáu trăm người sống và làm việc ở trung tâm đó.

Sau khi học xong đại học, chị tôi, Yangzom Doma, đi Anh Quốc để học ở Trường Nghiên Cứu Đông Phương và Phi Châu ở London và chị đã tốt nghiệp môn Hoa Ngữ và Tạng Ngữ. Khi chị trở về Ấn Độ, Cha tôi bảo chị làm việc cho chính phủ lưu vong Tây Tạng. Ông luôn khuyến khích chúng tôi làm tròn bổn phận với dân với nước của mình. Chị tôi làm việc ở Thư Viện Tác Phẩm và Tài Liệu Tây Tạng, nơi chị trở thành chủ nhiệm báo “Tibet Journal”.

Khi ở Dharamsala, chị Yangzom Doma thường tới thăm bà Nội và tất nhiên bà làm những món ăn mà chị ưa thích. Một hôm, vào năm 1979, chị tôi có ý tưởng ghi chép tiểu sử của bà Nội. Khi chị nói ra những ý tưởng này, bà Nội ngạc nhiên vì chưa có ai hỏi Bà có những cảm nghĩ gì về những sự kiện trong cuộc đời của mình. Nhưng bà Nội đồng ý kể những gì Bà có thể nhớ và trong khoảng một năm sau đó, hai bà cháu đã nói chuyện với nhau và chị Yangzom Doma đã ghi lại những lời kể của bà Nội. Khi đã bắt đầu kể thì bà Nội không cần phải có người thúc giục mình nhiều. Chị tôi nói rằng Bà hăng hái kể đến mức những câu chuyện của Bà đều có vẻ tươi mới, dù chuyện đã xảy ra mấy chục năm trước.

Một điều bi thảm xảy ra là chị tôi đã chết trong một tai nạn xe hơi ở Tunisia, Bắc Phi Châu, vào năm 1982. Tôi là người đầu tiên nhận được tin này và tôi nói cho Mẹ tôi biết. Sức khỏe của bà suy sụp vì đau khổ và bà không bao giờ phục hồi hoàn toàn sau khi bị mất con gái của mình. Bà bị ung thư và qua đời năm 1986. Hàng ngàn người Tây Tạng đã đến tụng kinh cầu siêu cho bà trong tang lễ. Dù Mẹ tôi là người Trung Hoa, họ đều tôn kính bà.

Tôi cưới vợ năm 1983 và vợ tôi sớm có thai. Một đêm tại khách sạn ở thành phố New York, chị tôi xuất hiện với tôi trong một giấc mộng. Chị nói với tôi rằng vợ tôi sẽ sinh con gái và chị sẽ là đứa con gái đó. Tôi đã không nói với bất cứ ai về chuyện này vì tôi không biết chuyện này có đáng tin hay không. Khi con gái tôi ra đời, Mẹ tôi rất sung sướng. Đứa cháu gái mang lại một niềm vui nhỏ cho bà sau khi chị tôi mất.

Tôi ly dị vợ khi con gái tôi lên năm và tôi đã phải gà trống nuôi con mười một năm qua. Tôi phải nói rằng con gái giống chị tôi ở nhiều điểm. Thí dụ như chữ viết của hai người giống nhau. Tôi giữ tất cả quần áo và vật dụng của chị tôi trong mấy cái thùng để ở căn gác trong nhà, và con gái tôi thích lục lọi những món đồ này. Cháu nói “Thật kỳ lạ, cô Yangzom có tất cả những thứ mà con thích”. Cháu thích mặc tất cả những trang phục của chị tôi. Vì vậy bây giờ tôi tin chắc rằng chị tôi đã tái sinh trong gia đình tôi và điều này làm cho tôi vui vẻ.

Tôi đã hứa với con gái là tôi sẽ không lấy vợ khác khi con chưa trưởng thành, và sẽ dành tất cả thời giờ cho con. Chúng tôi trở thành đôi bạn tốt. Nhưng năm ngoái tôi nói với con gái “Bây giờ con đã có đời sống của mình, cha đã bốn mươi tám tuổi rồi, và cha cần có một người bạn đời trong tuổi già. Cha cần phải lấy vợ”. Con gái tôi đã đồng ý. Mới đây tôi đã tục huyền và vợ chồng chúng tôi có một con gái vào tháng sáu vừa qua (1999). Chúng tôi đặt tên cho con theo tên của Mẹ tôi. Tôi nghĩ rằng Mẹ tôi cũng đã tái sinh trong gia đình tôi.

Khi Mẹ tôi qua đời, mọi người ở Trung tâm tị nạn đến thăm Đức Đạt Lai Lạt Ma và thỉnh cầu Ngài chỉ định tôi trong coi trung tâm này. Tôi nói rằng tôi sẽ làm công việc này nếu em trai tôi, một bác sĩ, sẽ giúp đỡ tôi. Vì vậy đó là công việc mà chúng tôi đã làm từ năm 1986 cho đến nay. Hiện tại trung tâm chiếm chín mươi phần trăm thời giờ của tôi.

Trung tâm tị nạn này là trung tâm đáng chú ý nhất ở Ấn Độ vì không dựa vào sự giúp đỡ từ thiện của người khác. Chúng tôi dệt thảm và chúng tôi có một máy in tối tân, một y viện chụp tia X, một phòng xét nghiệm máu, một bệnh viện và một trường học. Chúng tôi phục vụ cho 750 người. Để hỗ trợ cho gia đình mình, vào cuối tuần tôi tới nông trại của tôi ở Kalinpong, nơi tôi có một xưởng làm mì. Những món mì của tôi dùng nhiều ở vùng đó. Tôi cũng là một thành viên được bầu cử của Quốc Hội Tây Tạng. Tôi đã đi nhiều nơi và diễn thuyết về vấn đề Tây Tạng, đặc biệt là khi tôi ở New York, Washington DC và Nhật Bản.

Vì chị tôi đã qua đời trước khi có thể hoàn thành cuốn sách này nên tôi kế tục chị làm công việc quan trọng này. Bà Nội chỉ nói tiếng Tây Tạng và chị tôi đã dịch những lời kể của Bà sang tiếng Anh. Tôi đã soạn những lời ghi chú để xuất bản. Câu chuyện được kể lại ở đây không trọn vẹn, nhưng là những sự kiện quan trọng trong cuộc đời và thời đại của Diki Tsering và là một sự đóng góp cho những nỗ lực của chị tôi. Tôi vui sướng vì bây giờ nhiều người được biết về bà Nội của tôi.


Viết tại Dharamsala năm 2000
Khedroob Thondup
(Cháu nội bà Diki Tsering)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2020(Xem: 6639)
Tản mạn : Làm sao Chuyển hoá khổ đau ? "Khổ đau chỉ đến khi ta khởi lên ý niệm đó mà thôi ! " Nếu ai đó đã từng học được điều này thì mời các bạn cùng tôi ngâm vài vần thơ trước khi vào đề tài rất hữu ích cho thời đại công nghệ này bạn nhé ! Nhất là giới trẻ và trung niên ngày nay dù có học Phật Pháp hay đang nghiên cứu vài sách về tâm lý . Làm thế nào khổ đau được chuyển hoá ? Không lạm bàn nạn dịch với thiên tai Thẩm sâu nội tâm ... rơi lệ , thở dài Chuyện uất ức, bất mãn, thành công thất bại ! Suy cho kỹ ... Tâm phan duyên, hoang dại ! Khổ đau chỉ đến ... ý niệm khởi đó thôi Tự mình tiêu cực, sao lại phải Tôi!!! Nào tản mạn ... nuôi dưỡng được tâm thái tích cực !!! ( thơ Huệ Hương )
17/11/2020(Xem: 8075)
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NI TRƯỞNG THƯỢNG NGUYÊN HẠ THANH Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thánh Tổ Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di Mẫu Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý Thiện nam, Tín nữ xa gần, Thật là vinh dự cho chúng con/ chúng tôi hôm nay được viết những dòng giới thiệu này cho tuyển tập “Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ” (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States) do Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Chùa Hương Sen, đứng ra biên soạn và xuất bản.
17/11/2020(Xem: 5790)
Nhân loại đã biết cách bay lên mặt trăng, tuy nhiên nhiều nơi trên địa cầu vẫn còn bị ràng buộc với những thói quen xưa cổ, trong đó một thành kiến khó rời bỏ là xem nhẹ phụ nữ. Hầu hết các tôn giáo cũng xem nhẹ phụ nữ. Riêng trong Phật Giáo, phụ nữ từ xưa vẫn có một vị trí đáng kính và bình đẳng trên đường học đạo, để tận cùng là thành tựu Niết Bàn. Khi vua Pasenadi nước Kosala không vui vì hoàng hậu Mallikà sinh một bé gái, Đức Phật trong Kinh SN 3.16 dạy vua rằng: "Này Nhân chủ, ở đời / Có một số thiếu nữ / Có thể tốt đẹp hơn / So sánh với con trai / Có trí tuệ, giới đức..." Hơn hai mươi thế kỷ sau, ý thức nữ quyền mới trở thành phong trào. Theo định nghĩa cô đọng và đơn giản, nữ quyền là niềm tin vào sự bình đẳng của nữ giới với nam giới về chính trị, kinh tế và văn hóa. Do vậy thường khi, nữ quyền gắn liền với dân quyền, vì bình quyền nam nữ dẫn tới ý thức bình quyền cho từng người dân, đặc biệt là nơi các dân tộc đang bị các nước thực dân thống trị, hay nơi các sắc tộc thiểu số
16/11/2020(Xem: 4805)
Vào ngày 8 tháng 11 vừa qua, Hội đồng Thống nhất Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo Bangldesh (Bangladesh Hindu Bouddha Christian Oikya Parishad; BHBCOP), đã tổ chức một chương trình tập hợp và biểu tình hàng loạt trên toàn quốc để phản đối các cuộc tấn công, đốt phá, tra tấn và giết hại người tôn giáo thiểu số tại Bangldesh. Là một phần của cuộc biểu tình, họ đã thành lập các chuỗi người và các cuộc biểu tình từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa tại các giao lộ chính của các trụ sở cơ quan chính quyền cấp quận, huyện, thành phố và tỉnh trên khắp đất nước, bao gồm cả giao lộ Shahbagh, Dhaka và giao lộ ngã tư New Market, Chittagong.
16/11/2020(Xem: 5479)
Vào giữa thế kỷ thứ mười bảy, Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh tầm quan trọng như thế nào để việc phân tích không trở thành một bài học thuộc lòng như vẹt mà phải là sống động. Khi chúng ta tìm kiếm cho một “cái tôi” tồn tại cụ thể như vậy mà không thể tìm kiếm được nó hoặc là cùng giống hay khác biệt với tâm thức và thân thể, điều thiết yếu là phải tìm kiếm cùng khắp; bằng khác đi chúng ta sẽ không cảm thấy tác động của việc không tìm thấy nó. Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã viết:
15/11/2020(Xem: 6065)
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde, một tổ hợp báo chí uy tín và lâu đời của nước Pháp. Một số câu được trích nguyên văn từ các bài kinh, trong trường hợp này nguồn gốc của các câu trích dẫn đó sẽ được ghi chú rõ ràng, trái lại các câu đã được rút gọn, chỉ giữ lại ý chính, sẽ không có chú thích về nguồn gốc. Ngoài ra trong bài 1 trước đây, người chuyển ngữ đã mạn phép ghi chú dài dòng với hy vọng có thể giúp một vài độc giả theo dõi dễ dàng hơn chăng các lời trích dẫn đôi khi khá cô đọng hoặc trừu tượng? Dầu sao thiết nghĩ sự suy tư và phán đoán là quyền hạn ưu tiên và thiêng liêng của người đọc, vì lý do đó kể từ bài 2 này, người chuyển ngữ sẽ mạn phép chỉ xin ghi chú thêm một vài suy nghĩ riêng của mình khi cảm thấy cần thiết. Độc giả có thể xem bản gốc tiếng Pháp của các câu trích dẫn này trên trang mạng của báo Le Monde: https://dicocitations.lemonde.fr/auteur/616/Bouddh
14/11/2020(Xem: 6468)
Kính mạn phép được thay đổi lại lời của một bài hát mà âm điệu đã thấm sâu vào huyết quản tôi từ bao giờ và hôm nay một lần nữa lại vang vang ...nửa như kích thích sự hưng phấn trong tôi nửa như khuyến khích tôi phải trình bày vì sao tôi thấy ra được điều này " Một niềm an vui hạnh phúc hỷ lạc thật sự có mặt và có thật trong mỗi con người chúng ta "
13/11/2020(Xem: 5166)
Từ khi có Lục tổ Huệ Năng đưa ra lý thuyết chúng sanh có sẳn Tánh Giác gọi là Phật Tánh trong người nhưng vì bị Ý thức che mờ đi nên cần ngồi thiền vén lớp ý thức này ra thì Phật tánh sẽ hiện ra thành Phật nên không cần kinh luật bất lập văn tự mà tu. Rất nhiều người bình dân phương nam đi theo một thời đông đảo. Câu hỏi được đặt ra là tánh giác này có trước hay sau ý thức? Thế nên mới đưa ra kế tiếp là giác ngộ rồi mới khởi tu tức là học kinh Phật. Vì Giác ngộ đến Giải thoát sinh tử là một chặng đường rất dài có khi rất nhiều kiếp cần trãi nghiệm. Vậy chúng ta nghiên cứu giác ngộ trước.
13/11/2020(Xem: 4816)
Nhân khi đọc bài Thành Tựu Niết bàn của Cư sỹ Nguyên giác Phan Tấn Hải, chúng tôi xin phép kết hợp với thuyết big bang của Stephen Hawking và tiến trình giác ngộ của Đức Phật, và sự sống và chết theo Phật giáo để luận bàn về Niết bàn, giải đáp thắc mắc đức Phật chết rồi đi về đâu? Đây chỉ là khởi niệm mới lạ, biết đâu tương lai sẽ có người chứng minh được.
13/11/2020(Xem: 4763)
Phương tây từ thế kỷ thứ 18 đã từng phát huy cái ngã cái tôi của con người như “tôi suy tư là tôi hiện hữu”. Từ đó đến nay người Phuơng tây phát triển cái tôi, đưa đến tôn trọng cái tính riêng biệt cũa cái tôi từ triết lý đến luật pháp. Nhưng đạo phật lại diệt ngã thì làm sao mà hoằng pháp cho người Phương tây tu theo phật được? Làm sao giải thích được ý nghĩa diệt ngã của đức Phật? Vậy ta có thể giải thích là không phải ngã? Khi người ngồi thiền định dưới cội bồ đề 49 ngày, người đạt giác ngộ và đập tay xuống đất mà nói ta đạt được chánh đẵng chánh giác do trời chứng , ta chứng và đất chứng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]