Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời giới thiệu (HT Như Điển)

27/11/201309:50(Xem: 21035)
Lời giới thiệu (HT Như Điển)
Lời Giới Thiệu
của Hòa Thượng Thích Như Điển

Diễn đọc: Pt Quảng An




Hôm nay ngày 13 tháng 4 năm 2013 Phái Đoàn Hoằng Pháp tại Âu Châu của chúng tôi đang ở tại Chùa Phật Quang; nơi Đại Đức Thích Tịnh Phước Trụ Trì, Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng từ Úc đã gửi bản điện tử dịch phẩm mới nhất cho Thầy Hạnh Tuệ và nhờ tôi đọc và viết lời giới thiệu. Tôi rất hoan hỷ để làm việc nầy.

Đọc bản Việt dịch với nhan đề là: "Đức Đạt Lai Lạt Ma – Con trai của tôi" (Dalai Lama, my son), câu chuyện của một người Mẹ, đó là cụ bà Diki Tsering, thân mẫu của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Câu chuyện do hai người cháu nội của bà, Khedroob Thondup và Yangzom Doma,ghi lại từ lời kể của bà.

Lâu nay chúng ta thường nghe, đọc những sách viết về Đức Đạt Lai Lạt Ma; nhưng ít ai biết được nơi làng quê Amdo, Ngài đã sinh ra và lớn lên cho đến 4 tuổi như thế nào. Qua quyển sách nầy, người đọc sẽ biết rõ được tất cả những phong tục, tập quán cổ xưa của người Tây Tạng.

Bà Diki Tsering là một người đàn bà ở nông thôn không biết chữ, lớn lên 16 tuổi lấy chồng và sinh hạ 16 người con cả trai lẫn gái. Nhưng ở Bà Diki Tsering có những đặc tính đặc biệt như sau:

Về tinh thần: Bà là người rất mộ đạo. Tuy không được học hỏi nhiều, nhưng lòng tin nơi Tam Bảo, việc làm phước, bố thí, cúng dường vốn là những chất liệu dưỡng sinh căn bản để Bà tự làm chủ được mình khi phải chăm lo cho chồng, cho con cũng như làm Mẹ của người dân Tây Tạng từ năm 1940 khi Bà về Lhasa. Đặc biệt là truyền thống của người Amdo bà không bao giờ quên khi có cơ hội giới thiệu truyền thống nầy cho con cháu cũng như những người chưa quen biết, dù cho Bà sống tại Trung Hoa, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh Quốc hay ngay cả tại Ấn Độ.

Về vật chất: Cách ăn mặc của Bà cũng rất đặc biệt, không bao giờ từ bỏ những y phục cổ truyền của xứ Amdo, cho dù Bà đã sinh sống tại Lhasa. Vẻ đẹp không phải từ quần áo lụa là, mà chính là ở cung cách của con người sử dụng nó. Đi đâu và ở đâu Bà cũng làm những loại bánh đặc biệt của vùng Amdo để cho chồng, cho con thưởng thức. Điều này khiến cho con cháu của bà khó quên được cội nguồn. Đây cũng là một cách nhắc nhở gián tiếp cho những người được sinh ra từ miền quê nghèo khó ấy và không nên “có mới nới cũ” như nhiều mệnh phụ phu nhân đương thời tại Lhasa.

Người viết lời giới thiệu nầy có cơ duyên đã gặp trực tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 tất cả 5 lần. Lần đầu tiên vào năm 1992 tại Hamburg, Đức Quốc. Lần thứ hai vào ngày 18 tháng 6 năm 1995 tại chùa Viên Giác, Hannover. Hôm ấy cũng là ngày lễ đặt viên đá đầu tiên xây chùa Khánh Anh; nhưng tôi không thể từ bỏ Hannover để đi Paris tham dự được. Năm 1999 tại Schneeverdingen, tôi đã có cơ duyên học với Đức Đạt Lai Lạt Ma về Ngài Tống Khách Ba và Ngài Long Thọ. Đến năm 2006, Đại Học Hamburg tổ chức hội thảo về việc thọ Tỳ Kheo Ni cho chư Ni thuộc truyền phái Tây Tạng. Hôm ấy có cả Hòa Thượng Thích Quảng Ba từ Úc sang cũng như Giáo Sư Tiến Sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát thuyết trình bằng tiếng Anh và Hội Phật Giáo Hamburg đã dành cho tôi danh dự ngồi chung bàn dùng cơm trưa với Ngài cũng như Thủ Tướng Tây Tạng đương nhiệm lúc bấy giờ. Đến năm 2008 tại Frankfurt, đây là lần thứ 5 tôi đã có cơ duyên học với Đức Đạt Lai Lạt Ma về Trung Quán Luận và Tổ Sư Santideva cũng như Tổ Sư Asita trong vòng 5 ngày. Đây quả là những nhân duyên hy hữu của tôi có được trong đời này.

duc-dalailama-tham-chua-vien-giac-6

Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng, Phó Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne, Úc Châu, đã dày công phiên dịch tập truyện này cũng như sưu tập những hình ảnh giá trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma để cống hiến đến các độc giả xa gần. Quả là một việc làm đáng tán thán. Qua ngòi bút dịch thuật lưu loát của Thầy, đã chuyên chở được nội dung của sách mà tác giả đã gửi gắm vào. Những từ ngữ Phật học cũng đã được Thượng Tọa giản dị hóa để người đọc dễ hiểu. Quả là điều quý hóa vô cùng.

Với độc giả, chúng ta nên trân quý tác phẩm này, vì đây là quyển sách được chuyển dịch ra Việt ngữ đầu tiên về quê hương của Đức Đạt Lai Lạt Ma do chính mẫu thân của Ngài kể lại. Do vậy chúng ta nên dành thì giờ rảnh rỗi để đón đọc một cách tự nhiên. Vì trong sách ấy có những viên ngọc quý tinh thần thật là giá trị mà người đọc không nên gấp sách lại sớm hơn dự định.

Tôi đã đọc tập sách nầy trong vòng bảy tiếng đồng hồ qua ba trăm trang sách cũng như hình ảnh và sự kiện và thấy đây là một tác phẩm tuyệt vời; nên xin trân trọng giới thiệu đến với quý độc giả xa gần hãy trang trọng đặt sách vào tay để nghiền ngẫm những sự kiện đã xảy ra trong gần 80 năm qua.

Viết xong vào một sáng mùa xuân năm 2013 tại chùa Phật Quang Thụy Điển khi bên ngoài mùa hoa Tulip đã đơm bông hé nụ.


Trân trọng giới thiệu.

Sa Môn Thích Như Điển

Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2014(Xem: 21194)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
12/11/2014(Xem: 10846)
Chúng tôi đã hai lần đến quý quốc để hoằng pháp. Từ trước đến nay, hoặc thuyết pháp với các giáo hữu quý quốc, hoặc khai thị cho kiều bào chúng tôi tại đây, nhưng lần nào thính chúng cũng chỉ là cư sĩ. Hôm nay lần đầu tiên tôi lại được đối diện với toàn các vị xuất gia đồng đạo, nhất là với một số đông đảo các vị thanh niên xuất gia như thế này, cùng hội họp lại đây để cùng luận thuyết giáo pháp thâm yếu của Đức Phật. Thật là một điều làm cho chúng tôi sung sướng và cảm động.
12/11/2014(Xem: 16768)
Tốt nghiệp đại học, đang làm giám đốc điều hành cho một công ty chuyên về máy tính với tiền lương lên đến vài trăm ngàn đô la một năm, thế nhưng, James Christopher, một thanh niên Pháp vẫn quyết định bỏ việc sang Việt Nam đi tu.
09/11/2014(Xem: 10306)
Trước hết con kính thăm sức khỏe SP. Cầu nguyện chư Phật mười phương hộ trì cho SP luôn thân tâm an lạc, tật bệnh tiêu trừ để tiếp tục dẫn dắt hàng đệ tử chúng con tinh tấn trên con đường tu tập giải thoát. Theo hướng dẫn của SP, con đã làm lễ an vị Phật tại gia ở vùng Trung-Đông, nơi thánh địa của Hồi giáo. Buổi lễ bắt đầu bằng tụng kinh Chú Lăng Nghiêm, và sau đó là kinh Phổ Môn. Điều kỳ diệu, và đây là lần thứ 2 trong đời mà con chứng kiến, sau khi tụng kinh xong cây nhang đã cháy hết rồi mà tàn nhang còn nguyên không bị rớt xuống.
09/11/2014(Xem: 8401)
Giáo sư Tiến sĩ Genshitsu Sen, pháp danh Hanso Sōshitsu, sinh vào ngày 19 tháng 4 năm 1923, tại Kyoto, Nhật Bản. Giáo sư Genshitsu Sen, một kỳ lão Cựu phi công cảm tử ở tuổi thượng thọ 91 xuân, cựu Trưởng môn Phái trà đạo Urasenke đời thứ 15, sau khi thoát khỏi cái chết thời đệ nhị thế chiến, Giáo sư đó đây ngao du sơn thủy khắp thế giới và đáp ứng nhu cầu các nhà lãnh đạo thế giới, nhằm thúc đẩy hòa bình thông qua “Con đường Trà đạo”. Là con trai lớn và là đệ tử chân truyền của Giáo sư Sekisō Sōshitsu (1893-1964) cựu Trưởng môn Phái trà đạo Urasenke đời thứ 14.
08/11/2014(Xem: 17395)
Trong những pháp môn Phật dạy, tôi cả đời chuyên tâm nơi pháp môn Trì danh niệm Phật. Pháp tu niệm Phật có nhiều, trì niệm danh hiệu Phật là một trong những pháp niệm Phật. Đây là pháp môn dễ tu, dễ thực hành nhất, dễ thành tựu. Về chỗ thành tựu cũng như chỗ đạt được rất rõ ràng từng bước, từng nấc tiến, có thể diễn nói, có thể khắc nghĩa.
04/11/2014(Xem: 7542)
Trong đời sống chúng ta thấy một số người có những quan niệm rất ngộ nghĩnh, hay kỳ quặc. Nhiều người trong họ là những người có ăn học, trí thức nhưng họ lại tin vào những điều huyền hoặc, không tưởng. Như có người tin rằng các loài khủng long bị diệt chủng là do các nhà khoa học chế tạo ra, chứ không có thật.
02/11/2014(Xem: 6741)
Đêm hôm đó là một đêm trời mưa. Mưa dai ẳng như tình quê xứ Huế, nhưng không phải Huế. Mưa đang rơi trong trời đêm Thụy Sĩ. Càng về khuya, mưa rơi càng nặng hạt. Vạn vật im lìm đứng lặng trong đêm. Thời gian nhẹ trôi. Không gian yên vắng. Tất cả đang chìm vào tĩnh mịch giữa đêm khuya. Mọi nhà hàng xóm đều tắt đèn yên nghỉ. Không còn một tiếng động dù nhỏ nào, ngoài tiếng mưa rơi rả rích lẫn với tiếng tâm tình rù rì của anh em Gia Đình Phật Tử Trí Thủ chúng tôi ngồi quây quần bên nhau trên căn gác xếp nhà anh Khá.
31/10/2014(Xem: 7246)
Sáng nào tôi cũng đi thiền nhặt rác 2 - 3 vòng quanh công viên Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy. Vừa thong thả bước những bước thảnh thơi, không vội vàng, không suy tư vừa nhặt rác, nếu thấy có. Chân nhẹ bước, tay lượm rác, tay cầm rác, mũi hít thở không khí trong lành buổi ban mai. Hà Nội mùa thu đẹp lắm. Càng ngày tôi càng yêu mùa thu Hà Nội. Mùi hoa sữa vẫn thơm đầu ngày mới. Ánh mặt trời dần rạng tỏ sớm mai. Tôi mê ngắm mặt trời mọc và lặn từ bao giờ chẳng biết. Dù ở đâu cũng thấy bình minh và hoàng hôn đẹp vô cùng. Bagan hay Aytthaya. Siem Riep hay Ngũ Hành Sơn. Mandalay hay Chieng Mai. Hồ Tây hay Bồ Đề Đạo Tràng. Bà Nà hay Lâm Tỳ Ni. Đẹp vô cùng và thấy tâm an lạc và thảnh thơi đến khó tả.
31/10/2014(Xem: 8286)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]