Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Khúc Thán Ca Vô Thường Bất Hủ

05/11/201321:17(Xem: 32826)
17. Khúc Thán Ca Vô Thường Bất Hủ

mot_cuoc_doi_bia_3




Khúc Thán Ca

Vô Thường Bất Hủ





Rời Nālakagāma, đức Phật và đại chúng bộ hành theo con đường thương mãi để đến thị trấn Pāṭaligāma phồn vinh bên này phía nam sông Gaṅgā. Tại đây, ngài dừng chân một vài trú xứ, sách tấn tăng ni, sau đó vượt sông lên Vesāli...

Sau trận tai họa dịch bệnh, Vesāli phục hồi sinh lực rất nhanh. Nhờ biết tin vào những giá trị thiêng liêng, biết đoàn kết, biết sinh hoạt hội đồng với tinh thần dân chủ, biết cải cách chính sách kinh tế - nên đất nước sớm giàu mạnh, thịnh cường. Đi vào thành phố, chỗ này cũng công trường, chỗ kia cũng công trường. Ba bức tường thành chớn chở và kiên cố vòng quanh Vesāli như những vòng đai thép bảo vệ kinh đô - có ba cửa lớn vào ra luôn luôn có lính ôm gươm giáo sáng lòa. Rồi những vọng gác và những vọng gác, đêm đêm hỏa đăng sáng rực. Những dãy phố, dãy lầu kéo dài từng dặm, từng dặm phô ra tất cả mọi đường nét và sắc màu nguy nga tráng lệ...

Đi bên sau đức Phật, chư tăngi trầm trồ vì coi chừng, Vesāli sẽ vượt trội Rājagaha!

Biết đức Chánh Đẳng Giác không muốn xen vào một nhận xét nào, nên tôn giả Sāriputta nói:

- Là bậc xuất gia phạm hạnh, chúng ta không nên góp ý về việc phú cường của một quốc độ. Riêng tôi thì chỉ thấy lòng người thể hiện ra bên ngoài mà thôi! Tôi đọc được rằng, đó là tham vọng chinh phục, tham vọng bá chủ và cả tham vọng củng cố quyền lực. Tôi lại còn nghe mùi binh đao và máu lửa nữa đấy!

Nghe vậy, đức Phật bảo:

- Hãy ghi nhớ lời của Sāriputta! Đấy cũng là pháp duyên khởi đương nhiên vậy!

Đêm đó, đức Phật và đại chúng ngụ ở Đại Lâm. Tôn giả Sāriputta dẫn hai cô em gái sang ni viện để hôm sau cho thọ giới.

Cuộc lễ vừa chấm dứt thì tỳ-khưu-ni Ambapālī từ ngoài vào, đến đảnh lễ đức Phật và chư tôn trưởng lão. Đức Phật mỉm nụ cười nhẹ:

- Này con gái, đời sống phạm hạnh với tuổi già có thấy dễ chịu không?

- Rất mát mẻ và thảnh thơi, bạch đức Thế Tôn!

- Ừ! Đức Phật gật đầu - Con cũng đã trải qua không biết bao nhiêu là gian truân, chìm nổi. Chỉ do một phát ngôn bất cẩn, thiếu thận trọng mà con đã chịu không biết bao nhiêu kiếp đọa đày, thống khổ.

- Đệ tử cũng đã biết rồi, đã thấy rồi, bạch đức Thế Tôn!

Thế là cả đại chúng hôm đó đều đã biết người kỹ nữ nỗi tiếng thành Vesāli, vị tỳ-khưu-ni già đã chứng quả A-la-hán, luôn cả thần thông.

Và đây là câu chuyện của nàng.

Sau khi xuất gia, tỳ-khưu-ni Ambapālī không được vui do tuổi già, không còn đủ lanh lẹ trong mọi sinh hoạt như các tỳ-khưu-ni khác. Có một dao động mãnh liệt khi thấy bản chất già yếu, lụm khụm, mệt mỏi... và sự biến đổi, thay đổi của thân xác.

Hôm kia, ngồi bên bờ suối vắng vẻ, nhìn ngắm chiếc bóng già nua thấp thoáng ẩn hiện trong dòng nước, tỳ-khưu-ni Ambapālī kinh cảm, tràn đầy xúc động, thốt lên một bài kệ như sau:

“ - Ôi! Mái tóc thanh xuân của ta,

Mái tóc màu xanh sậm tợ mắt con ong chúa

và bồng bềnh sóng gợn từ gốc tới ngọn

Bây giờ sắc đẹp ấy đã bị phá hủy

Do bệnh hoạn, do tuổi già

Do lửa thời gian thiêu đốt

Nó khô rang giống như sợi vỏ cây gai dầu

Ai rồi cũng phải bị tuổi già khống chế,

bị sự vô thường chi phối

Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Mái tóc của ta tỏa hương thơm

giống như một hộp đựng châu báu

hoặc như một hộp đựng hương

Do trên đầu ta luôn phủ đầy hoa puppheti,

hoa campaka, hoa aribian

cùng bột hương và các loại hương liệu tế nhị, quý phái

Còn nữa, mái tóc ta dày rậm

như một khu rừng khéo trồng,

mỗi sợi tóc là mỗi gốc cây luôn được bảo vệ,

chăm sóc như trong công viên của hoàng gia,

Nó mềm mại, êm ái và sực nức thơm tho.

Lại còn được làm đẹp

với lược gắn bằng vàng ròng tinh chất,

với trâm cài có đính kim cương -

Nó óng ánh, đẹp đẽ

và chói sáng giống như ngày hội của muôn sao

Bây giờ thì nó đã thưa thớt dần

Sau khi cạo bỏ,

nó lại phảng phất mùi hôi như lông chú cún,

khó chịu như mùi lông cừu

Ôi! Quả đúng là một rừng bất tịnh

Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Đôi làn mi của ta

đã được họa sĩ trứ danh khéo vẽ

Đẹp tựa vầng trăng lưỡi liềm

Nó không những điểm màu xanh tinh tế,

màu gợi cảm tinh tế

mà còn pha thêm hồn của liễu rủ,

hồn của những sợi tơ con bướm ngài

Phải nói là nó đẹp đến tuyệt mỹ, vô song

Bây giờ đôi làn mi ấy

chỉ còn là những sợi rơm rạ khô vàng

kéo theo những tia nhăn nheo phủ xuống mệt mỏi,

báo hiệu sự già lão, chết chóc

Ôi! Một thời,

Đôi mắt của ta đen huyền và xanh thẳm

như đôi mắt của chúa bồ câu,

chúa thiên nga, chúa nai trong rừng sâu

Nó lại còn rực rỡ, chói ngời

nhưng xanh trong và tỏa sáng dịu dàng

như hai luồng châu báu

Bây giờ, tháng năm biến đổi

Nó đã đục lờ như nước sữa chua

Nó đã lấm tấm mọc lên li ti

những mụn bụi, mụn cát màu xám nâu

Nó xấu xí, bạc nhược và vô hồn đến nỗi,

có thể đem so với đôi mắt con cá chết,

nhưng mà con cá chết ươn!

Ôi! Đang lúc tuổi trẻ dậy thì

Mũi của ta mềm dịu,

Ngay thẳng và sáng trong

Sống mũi là một gò núi tinh tế, tuyệt hảo

Nó kiều diễm như châu ngọc không có tỳ vết

Bây giờ thì nó sụp xuống như ống cống bị gãy

lại còn tươm rỉ nước mũi lệt sệt hôi hám

Ôi! Sự thật vô thường thật là khó kham, khó nhẫn;

Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Đôi tai của ta, vành tai,

trái thùy châu của ta

Nó được những vòng vàng, vòng ngọc,

vòng bạc khéo chế tạo, tế nhị điểm trang

Nó sáng chói như ngọc chuốt

Bây giờ thì nó chảy xệ xuống,

nhăn nheo rủ xuống như hai miếng giẻ rách

Ôi! Sự thật vô thường thật đáng sợ

Đúng như lời dạy bảo của đấng giác Ngộ, không sai!

Ôi! Một thời,

Hàm răng của ta trắng tinh như ngà,

đều đặn như hạt lựu, hạt bắp,

trắng nõn như búp măng chuối mới sinh

Nay thì nó bị bể, bị gãy, bị sâu đục

rồi chiếc rụng, chiếc long

và chúng ngả sang màu vàng, đen xỉn

Trông mới ghê sợ, thê thảm dường bao!

Ôi! Một thời,

Giọng nói, âm sắc của ta ngọt ngào, ngọt lịm

Nó êm ái, du dương

Nó mê ly, thánh thót

Nó quyến rũ mê hồn

Khi ta thốt lên thì nó thỏ thẻ, đường mật,

gợi tình như tiếng chim cu

sống chung trong cánh rừng

cùng những ca sĩ non xanh líu lo tấu nhạc

trong một khúc trường xuân miên viễn

Nay thì nó rè rè, khan khàn, đứt đoạn

giống như gió thổi qua ống sáo trúc bị nứt bể!

Ôi! Một thời,

Chiếc cổ của ta thật là kiều diễm

Nó đầy đặn, mềm mại, tròn sáng

Như vỏ ốc xà cừ bằng vàng

được đánh bóng công phu, khéo tay và tinh tế

Giờ đây trông nó như vỏ mướp đắng phơi khô,

có nhiều ngấn quăn queo,

chỉ còn là bì da đựng lớp mỡ thừa,

chảy xệ, nhão nhoẹt.

Ôi! Một thời,

Hai cánh tay trần của ta mềm mại, tròn trịa

vàng sáng như được tô ngọc

hòa thêm với ánh trăng đêm mười sáu

Nó còn giống như hai ống ngọc tròn

vòng quanh ngôi đền tình ái

Nay thì nó đã xiêu đổ, biến dạng, đổi hình

Và nó yếu ớt, tàn tạ

như đóa hoa kèn trắng bệch

không còn chút huyết sắc nào

Ôi! Một thời,

Hai bàn tay của ta trắng trẻo, mềm dịu,

sáng trắng như trứng gà bóc

Lại còn nhẫn vàng, nhẫn ngọc,

nhẫn kim cương, hột xoàn trang điểm

tô chuốt óng ánh bóng ngời

Nay thì nhăn nheo, nhũn nhèo

mềm xèo như cây hành héo

như nhúm cải luộc!

Ôi! Một thời,

Cặp nhũ của ta căng phồng, tròn trịa

Mơn nõn như hai trái đào tiên

đầu vú cứng cáp tràn trề sinh lực

và đỏ hồng như điểm chu sa

Nay thì nó chảy xệ xuống

Như bầu da khô sữa không còn căng đầy

Như túi nước đã rỉ hết nước

ẻo xèo và nhăn nhúm

Ôi! Một thời,

Thân ta thon thả và chói sáng

như áo giáp vàng đánh bóng

Sau khi đã bôi lên một chất son tinh khiết

Đâu cũng mịn màng, láng lẩy

Đâu cũng tròn căng và thơm tho

Nay thì chúng đã xuống cấp

Như ngôi nhà mối mọt

Đã tàn tạ và mục rữa ở khắp mọi nơi

cả những sinh bào bé tí

cũng cau mặt, nhăn nhiu thảm hại

Ôi! Một thời,

Cặp đùi của ta múp míp đầy đặn

ánh ngời như cặp ngà voi

Mềm mại và uyển chuyển

như bước đi của tiên nữ

Và nó đã làm cho bao nhiêu

vương tôn công tử chết đứng chết ngồi

Vì nó đã được ông thợ trời khéo khắc, khéo tạc

Thành một tác phẩm tuyệt mỹ

Nay thì giống như hai ống tre khô giòn

đến thời quăng vào lửa đốt!

Cặp bắp chân của ta cũng thế

Như được uống nước no,

mịn màng và vàng óng

Lúc nào cũng giống như đôi giày được độn đầy bông

Nay thì nó gầy gò, teo tóp, xương xẩu

rất ít thịt và máu

giống như thân cây mè khô

được cắt bỏ ngoài đồng ruộng

khô nỏ, nứt nẻ

Những sợi lông chân của ta

cũng mịn màng vàng óng

Bây giờ thì như cây cỏ

trong ngôi rừng vừa bị lửa cháy!

Ôi! Cái thân, cái thân!

Các pháp hữu vi kết hợp này

Nó chịu cái già lão hủy hoại

Cái ngôi nhà được vô minh và ái dục xây nên

Nay đã cũ kỹ

cột kèo, đòn dông đã bị hư mục

Mái lợp, tấm che đã xiêu rách tả tơi

Và những lớp vôi trét tường đã đến hồi rụng rã

Cái thân vô thường này

là một cái bọc chứa đầy bất tịnh và đau khổ

Lời dạy của đức Tôn Sư

muôn đời là sự thật

Tham luyến, chấp thủ gì nữa

mà không chịu rời xa?”

Sau khi thốt lên lời thán ca về sự vô thường, biến đổi, bất tịnh của cái thân như thế, tỳ-khưu-ni Ambapālī nắm ngay tướng bất tịnh ấy, lìa tham ái, chấp thủ, đoạn trừ năm triền cái, năm thiền chi xuất hiện đi vào định thiền, tuần tự sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền chỉ trong thời gian bảy ngày. Nhờ tâm định vững chắc, kiên cố, nàng quán sát danh sắc, thấy được thực tánh, tam pháp ấn hiển lộ, chứng đắc các tầng tuệ giác, từ cạn vào sâu, chứng quả A-la-hán với đầy đủ ba minh.

Bổi hổi, bồi hồi, lạc phúc và an tịnh, nàng dùng thiên nhãn, sanh tử minh, rồi túc mạng minh chiêm quan nhìn ngắm các kiếp sống trầm luân sinh tử của mình, cảm thán, nàng thốt lên một bài kệ tán ca nữa:

“- Hóa ra ta đã có căn duyên

từ thời Phật Phussa

Ta thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ

Là chị gái của đức Hiền Trí ấy

Tuy nhiên, dẫu lắng nghe chánh pháp

dẫu bố thí cúng dường lớn lao

ta cũng chỉ biết

cầu mong có được sắc đẹp diễm kiều

Đến thời Phật Sīkhī xuất hiện

Ta sinh ra

trong kinh đô Aruṇa tuyệt vời thanh lịch

Ta xuất gia tỳ-khưu-ni trong giáo pháp này

Hôm kia,

dẫn đầu đoàn Ni chúng đông đúc

đến chùa nghe pháp đức Thế Tôn

có một vị Trưởng lão ni lậu hoặc đã tận

do hắt xì hơi nhổ ra một bãi đờm

Ta bước qua, thấy bãi đờm,

cất lời nguyền rủa

“Con kỹ nữ nào

dám nhổ cái đống bất tịnh ở đây!”

Do lời ác khẩu

phỉ nhổ bậc thánh vô nhiễm

Ta bị đọa sanh ở cõi hỏa ngục

chịu nhiều cực hình đau đớn

Sau đó bị dư nghiệp của quả báo

Ta bị làm kỹ nữ suốt mười vạn kiếp nữa

Đến thời Phật Kassapa

Ta được xuất gia tỳ-khưu-ni

với bậc Đại Chiến Thắng

Nhờ giới hạnh trong sạch

Tích lũy thiện nghiệp

Ta được hóa sanh vào cõi Tam thập tam

Đến thời Phật Sākya Muni hiện tại

Do đã chán các thai bào dơ uế

Nên tuy sanh làm người

Nhưng ta lại hóa sanh tại cây xoài

Nên được đặt tên là Ambapālī

Do nghiệp còn dư sót

Ta vẫn làm kỹ nữ

Do sắc đẹp, tài năng -

thế gian không ai sánh nổi

Nên được phong danh hoàng hậu kỹ nữ

Khi tuổi chiều bóng xế

Ta lại được nghe pháp của đức Thế Tôn

Duyên xưa trổ sanh

được xuất gia tỳ-khưu-ni

Và không mấy chốc

ta đã đạt Tam Minh

Mọi lậu hoặc, kiết sử không còn nữa

Ta thênh thang giải thoát

Ta vô ngại giải thoát

Ta chẳng còn tái sanh, luân hồi nữa

Ta đã làm trọn hảo phận sự của mình

Thực hiện đúng đắn lời dạy của đức Tôn Sư

Chẳng còn gì để làm nữa trên cõi đời

Vô lượng tri ân bậc Vô tỳ vết,

bậc Chiến thắng tam giới,

đã cho con nếm thưởng

hương vị Pháp bảo vô sanh bất diệt!”

Những đoạn kệ, nhất là bài thán ca vô thường bất hủ của tỳ-khưu-ni Ambapālī không mấy chốc được lan truyền đi khắp nơi. Một vị thánh ni, xuất thân là một kỹ nữ vừa được sanh ra trong giáo pháp của đức Thế Tôn là một biến cố trọng đại, được mọi người xưng tán, tôn trọng tụng ca, hàm tàng biết bao nhiêu ý nghĩa, khó nói cho hết được.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2020(Xem: 5386)
Cư sĩ Mahā Silā Vīravong, sử gia Lào, nhà ngữ văn, giáo viên dạy tiếng Pali, người hiện đại hóa bảng chữ cái Lào, một nhân vật trí thức lớn của nền độc lập Lào. Trong các cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân đế quốc Pháp, bằng cách tích cực hoạt động trong phong trào của Lào Issara mà ông lưu vong tại Vương quốc Thái Lan vào năm 1946.
29/09/2020(Xem: 5373)
Bảy đại diện của Hội nghị Hàn Quốc về Tôn Giáo và Hòa Bình (KCRP), bao gồm Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36, đã gặp gỡ Thủ tướng Chính phủ Hàn Quốc Chung Sye-kyun (정세균; Đinh Thế Quân), và cam kết hợp lực để tìm ra một kế hoạch hợp tác, đôi bên cùng có lợi cho cả các hoạt động tôn giáo và phòng chống cơn đại dịch hiểm ác Virus corona.
29/09/2020(Xem: 4522)
Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.
29/09/2020(Xem: 5270)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.
29/09/2020(Xem: 5548)
Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.
29/09/2020(Xem: 6886)
“So sánh với thế giới ngày nay, tôi nghĩ rằng mọi người ở khắp nơi đều cảm thấy hòa bình là rất quan trọng. Vào thế kỷ trước, chúng ta đã chi rất nhiều tiền và kiến thức khoa học để chế tạo vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Bây giờ tôi nghĩ rằng phải khai trừ thái độ tinh thần đó và đã thay đổi nhiều. Bây giờ mọi người đang thể hiện mối quan tâm nghiêm túc về hòa bình; điều đó rất quan trọng. Ngày nay do đại dịch hiểm ác Covid-19 nên tình hình kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ nguy khốn như vậy, suy nghĩ về vũ khí là không thực tế và lỗi thời. Bây giờ chúng ta phải nghĩ về một thế giới hòa bình.
29/09/2020(Xem: 5106)
Hai cây đàn gỗ, thường gọi là đàn thùng, được chủ nhân treo gần bên nhau trên chung một vách gần bên kệ kinh sách. Sáng sớm, cây Đàn Mới Đẹp được chủ mang đi hòa tấu ở đâu đó đến trưa mới mang về treo lại bên cây Đàn Cũ Kỹ. Gần bên nhau hơn cả giờ đồng hồ, thấy Đàn Cũ Kỹ vẫn im thin thít không hỏi han gì, Đàn Mới Đẹp ấm ức hỏi: "Sao anh không hỏi gì?"
28/09/2020(Xem: 6197)
Họa sĩ Nhân dân Mông Cổ, Cư sĩ Urjingiin Yadamsuren (1905–1986) là cha đẻ của Nghệ thuật Mông Cổ hiện đại, đặc biệt là một phong cách chịu ảnh hưởng của “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Socialist realism), cũng như các phong cách và kỹ thuật truyền thống của Mông Cổ, được gọi là Mongol Zurag. Phong cách lấy chủ đề Mông Cổ thường nhật và làm cho những người bình thường và thực hành chủ đề này.
28/09/2020(Xem: 6997)
Sáng nay chúng con, chúng tôi lại tiếp tục lên đường gieo hạt tình thương, nơi đến cứu trợ hôm nay là một địa điểm đặc biệt liên quan đến lộ trình hoằng pháp của đức Phật, đó là nơi Ngài đã thuyết Bài Kinh Lửa Cháy (Aditta-pariyaya Sutta- Tương Ưng Bộ Kinh- Kinh 35.28). Như trong kinh tả lại, vài tháng sau khi giác ngộ, Đức Phật giảng bài pháp nầy cho 1,000 tu sĩ theo phái thờ thần lửa. Qua lối giảng siêu việt của Ngài, Đức Phật đã dùng ví dụ về lửa cháy (lửa tham, sân, si) để dạy về tâm xả ly đối với các cảm thọ qua sáu căn. Sau khi nghe bài giảng nầy, toàn thể thính chúng đắc quả A la hán.(Đường Link để tham khảo bài Kinh: Kinh Lua Chay)
28/09/2020(Xem: 6698)
Dharamshala: Thủ tướng Chính phủ Tây Tạng lưu vong (Sikyong), Tiến sĩ Lobsang Sangay, nhà lãnh đạo Chính trị được bầu dân chủ Tây Tạng, Cục Quản lý Trung ương Tây Tạng lưu vong đã ra mắt cuốn sách do Hoà thượng Acharya Yeshi Phuntsok, Phó Chủ tịch Quốc hội Lưu vong Tây Tạng biên soạn với chủ đề “So sánh Hiến pháp của các Quốc gia Dân chủ Khác nhau” (Comparative Constitutions of Various Democratic Nations). Tác phẩm tập trung vào việc so sánh Hiếp pháp của các quốc gia dân chủ khách nhau trên thế giới, và giải thích các loại Hiếp pháp Dân chủ khác nhau một cách đơn giản nhưng sâu sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]