Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Đức Tin Phát Sáng

26/10/201320:09(Xem: 28952)
11. Đức Tin Phát Sáng

Mot cuoc doi bia 02


Đức Tin Phát Sáng






Sau mùa an cư thứ ba (một mùa tại Lộc Uyển, hai mùa tại Trúc Lâm), hầu hết các trưởng lão, các tỳ-khưu A-la-hán đều xin đức Phật đi du phương hành hóa các nơi. Đầu tiên là tôn giả Mahā Kassapa và chúng đệ tử của ngài, muốn thể hiện hạnh đầu-đà nên tản mác khắp thành Rājagaha để làm gương cho chúng. Tiếp đến là nhóm tôn giả Yasa và chúng đệ tử của ngài muốn đi hoằng pháp tại các quốc độ phía tây nam. Một số các tôn giả trong nhóm Pāyāva và chúng đệ tử muốn trở lại tuyên giáo các xứ sở miền tây bắc. Nhóm tôn giả Nandīkassapa, Gayākassapa và chúng đệ tử lại chia nhau sang các xứ đông nam để truyền bá giáo pháp! Các tôn giả Assaji, Vappa, Bhaddiya (cũ), Mahānāma, Uruvelākassapa và một số đệ tử chững chạc thì ở lại để chăm lo công việc và giáo giới cho các vị tân tỳ-khưu. Nhóm các ông hoàng và các tỳ-khưu dòng tộc Sākya một số ở lại, một số theo chân tôn giả Kāḷudāyi qua bờ bắc sông Gaṅgā đi gieo duyên hóa độ các tiểu bang và các nước cộng hòa ở đấy. Hai vị đại đệ tử thì thường theo hầu đức Phật để tiếp thu các thời pháp hoặc nhận những chỉ thị từ ngài. Tỳ-khưu Ānanda thì rất ham mê nghe pháp, không cận kề đức Phật được thì gần gũi chư vị tôn giả Sāriputta, Moggallāna hoặc nhóm ngài Assaji để nghe lại các thời pháp từ hồi còn ở Lộc Uyển, rừng Kappāsīya, tụ lạc Uruvelā...

Sa-di Rāhula thì rất chăm ngoan lắng nghe, học hỏi, tu tập từ vị giáo thọ sư của mình cùng các vị khác nữa.

Như vậy là chỉ non nửa tháng sau, Trúc Lâm chỉ còn hơn một nghìn vị tỳ-khưu! Tuy nhiên, chỉ mấy hôm sau là nhân số Trúc Lâm được bổ túc thêm. Đầu tiên, đức Phật tiếp đón chàng thiếu niên Sotthiya và gần hai mươi bạn hữu chăn bò từ Uruvelā tìm đến. Đức Phật mỉm cười, thân thiện chuyện trò, tiếp nhận rồi bảo tôn giả Sāriputta cho họ thọ giới sa-di. Kế đến là đạo sĩ Pukkusa, người bạn của đức Phật từ đạo tràng đầu tiên dẫn theo cả mấy trăm đạo sĩ, đệ tử cũ của đạo sư Ālāra, đạo sư Uddaka đến xin quy giáo. Gặp lại đức Phật, đạo sĩ Pukkusa rất vui mừng. Sau khi đảnh lễ vị Phật mà ông ta đã vô cùng ngưỡng mộ, đồng thời, danh tiếng của đức Đạo Sư vô song đã trở thành đề tài bàn luận sôi nổi của các đạo sĩ, Pukkusa kể lại sự sa sút của cả hai đạo tràng sau khi hai vị đạo sư mất đi như thế nào. Sau một thời pháp giáo giới về những điểm căn bản của đạo giác ngộ, đức Phật chứng minh để các vị trưởng lão làm lễ cho họ xuất gia tỳ-khưu.

Thời gian này đức Phật còn có ý chợ đợi một người, một nhân vật hộ pháp quan trọng, và cũng là nhân duyên cho giáo pháp lan sang các quốc độ phương xa. Trúc Lâm là một thủ phủ của miền đông nam châu Diêm-phù-đề; phải cần một thủ phủ lớn rộng hơn thế ở miền tây bắc nữa để hai nơi hỗ trợ cho nhau...

Ngày hôm sau, đức Phật giao trọng trách Trúc Lâm cho tôn giả Mogallāna và tôn giả Assaji, đặc biệt lưu tâm đến Nanda và Rāhula rồi cùng với tôn giả Sāriputta, thị giả Upavāna, thêm một số ít tỳ-khưu khác nữa đến ngụ cư tại cụm rừng Sītavana phía tây thành phố! Đức Phật ở đây để hóa độ những người hữu duyên, đồng thời, cố ý chờ đợi một người. Và nhân vật ấy là Sudatta!

Ông là một thương gia giàu có, còn trẻ, tên thôi nôi là Sudatta; nhưng vì hằng tâm, hằng sản, do danh thơm bố thí và hay giúp đỡ những người nghèo khổ với lòng quảng đại vô song nên được người đời kính trọng, mến thương ban tặng cho tôn hiệu Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc); có nghĩa là: Nuôi ăn những người nghèo khổ, trợ cấp cho những kẻ cô độc! Kinh thành Sāvatthi (Xá Vệ), vương quốc Kosala là quê hương sinh quán của ông.

Là chủ tịch một nghiệp đoàn thương mãi, chuyên kinh doanh vàng bạc, đá quý nổi tiếng của kinh đô vương quốc Kosala, trưởng giả Sudatta có dịp đi đây đi đó luôn để liên hệ chuyện làm ăn. Ông kết hôn với em gái của một phú thương ở Rājagaha nên hay lui tới thành phố kinh tế và thương mãi này.

Hôm kia, vào khoảng những ngày cuối tháng mười năm năm trăm tám lăm (tr.TL), trưởng giả Sudatta đến Rājagaha, ghé nhà ông anh rể. Bình thường thì trưởng giả Sudatta được cả nhà đón tiếp rất nồng hậu, rất niềm nở; nhưng nay thì chẳng thấy ai chào hỏi cả mặc dầu ông đã bước vào cửa trong! Trưởng giả Sudatta thấy ai cũng bận rộn sắp đặt, trang hoàng, trần thiết, dọn dẹp sạch sẽ chỗ này, chỗ kia với chổi quét, với sơn vôi, với khăn lau, với bình hoa, chuỗi hoa, tràng hoa như để chuẩn bị đón tiếp một vị thượng khách nào! Dường như chẳng ai chú ý đến ông! Và chính chủ nhân cũng đang lúi húi công việc ở nhà sau!

Chẳng lấy thế làm điều, chẳng để bụng chuyện đó, Trưởng giả Sudatta chỉ tò mò, ngạc nhiên hỏi:

- Hôm nay cả nhà ta, có kỵ giỗ, có hỷ sự gì trọng đại lắm phải không?

Ông anh rể mỉm cười, bí mật:

- Không phải thế!

- Hay là để đón tiếp một người bạn chí cốt, tương giao nào đó của ông anh mà đệ chưa biết?

- Nếu là vị ấy, thì có ai thâm tình, chí thiết hơn ông em rể của tôi đã chứ!

Trưởng giả Sudatta nhăn mày, suy đoán:

- Hay là đón tiếp đức vua, các trọng thần của triều đình?

- Các vị ấy cũng là thượng khách hy hữu đấy, nhưng không đến nỗi để tôi quên cả ông em rể quý trọng!

- Vậy thì còn ai trên trời đất này nữa nhỉ?

- Có đấy, hơn cả trời đất nữa, ông em thân mến ạ! Vị ấy là thầy của chư thiên và loài người, đấy là đức Buddha và Tăng chúng đệ tử của ngài!

Mới nghe danh từ Buddha, tâm Sudatta chợt nhiên rúng động, bồi hồi; một cảm xúc siêu thoát như chớm nở dịu dàng trong lòng ông, trưởng giả Sudatta lắp bắp:

- Buddha! Buddha! Kỳ diệu làm sao, ông anh ơi! Buddha! Buddha! Sao âm vang kia nó như xao động vào chiều sâu ký ức tiền kiếp của em vậy! Ôi! Em mong muốn được diện kiến đức Buddha ấy biết bao nhiêu!

- Rồi ngày mai ông em sẽ được gặp ngài mà!

- Ở đâu? Hiện tại vị ấy ở đâu? Trái tim trưởng giả Sudatta xao xuyến, hỏi dồn dập – Có xa đây không hả ông anh kính mến?

- Cũng gần đây thôi, nơi cụm rừng Sītavana, qua khỏi một nghĩa địa, phía tây thành phố; ngài đang ở đấy cùng với một số ít sa-môn!

Thế là trưởng giả Sudatta bắt đầu nóng ruột, ông muốn đi gặp đức Phật ngay, nhưng tiếc thay, trời đã tối. “Qua hôm sau sẽ gặp! Qua hôm sau sẽ gặp! Và ta sẽ có cơ hội chiêm bái ngài!” Sudatta nhủ thầm như vậy, rất lấy làm hoan hỷ rồi yên tâm đi nằm ngủ. Vừa chợp mắt, trưởng giả Sudatta đã giật mình tỉnh dậy, mong cho trời mau sáng. Và cứ vậy, ông thắc thỏm, nằm rồi thức dậy nhiều lần. Đến đầu canh ba, trưởng giả Sudatta không còn chờ đợi được nữa, trong bóng tối, ông làm vệ sinh cá nhân, mặc áo trong, choàng áo ngoài, vấn khăn, cột đầu chỉnh tề - rồi chẳng đợi ông anh chỉ lối, ông mở cửa khẽ khàng. Trăng hạ tuần soi tỏ mờ mờ, sương mù dầy đặc. Trưởng giả Sudatta nhắm hướng tây bươn bả đi. Trời chấp chóa, trưởng giả Sudatta nôn nao nên vấp ngã luôn, dầu vậy, ông cũng lần mò đến được nghĩa địa. Bóng cây vật vờ chỗ này, ánh lân tinh từ những đốt xương người lấp lóa, chập chờn chỗ kia. Sự hoang vu và yên lặng của nghĩa địa làm cho người can đảm nhất, tóc tai cũng phải dựng ngược. Nhờ nghĩ đến “đức Buddha chí tôn của mình”, trưởng giả Sudatta thản nhiên cất bước, đức tin càng lúc càng vững mạnh, càng trong sạch ở trong ông. Trạng thái tâm lý thuần nhất ấy làm cho ông phát sanh phỉ lạc (pīti): Toàn thân phát sáng - sáng hơn cả lân tinh! Vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi, trưởng giả Sudatta dừng lại quan sát. Ánh sáng nơi toàn thân lại mất! Trưởng giả Sudatta ngơ ngác không biết chuyện gì, không hiểu nguyên nhân làm sao; ông đứng sững hồi lâu, bần thần suy nghĩ...

Chợt nhiên, ngay lúc đó, trong gió nhẹ xao, từ hư không rơi xuống bên tai ông một lời nói ngọt ngào, dịu hiền, ấm cúng như lời mẹ ru con, như lời khuyến khích của đấng nghiêm phụ đối với đứa con trai duy nhất của mình:

“– Này Sudatta! Đừng có sợ hãi, không có gì phải sợ hãi! Hãy theo cái tâm của ông mà bước tới! Hãy theo tiếng gọi thâm sâu từ vô thức mà bước tới! An lạc và chân phúc là những bước chân đi tới chứ không phải dừng lại hoặc ngoảnh lui phía sau! Cứ hãy thản nhiên mà bước tới!”

Trưởng giả Sudatta đưa mắt nhìn quanh, không thấy ai, vậy có lẽ là thiên thần! Cảm nhận được thiện ý của lời khuyến khích nên trưởng giả Sudatta mạnh dạn bước đi. Ông lại nghĩ đến “đức Buddha chí tôn của mình” với đức tin trong sạch, ánh sáng nơi thân phát sanh trở lại! Ông sợ hãi một lần nữa, ánh sáng lại biến mất.

Giữa hư không, tiếng lời dịu dàng lại tiếp tục:

“- Này Sudatta!

Hãy bước tới

Chớ có dừng lại!

Dẫu hằng trăm thân ngựa giỏi,

Hằng trăm thớt tượng hay,

Hằng trăm cỗ xe thiện xảo,

Hằng ngàn mỹ nữ

Cổ vòng vàng và ngọc đeo tai 

Tất cả giá trị và lạc thú trần gian kia 

Thật không thể bằng một phần mười sáu

Hạnh phúc của một bước chân đi tới!

Vậy hãy tiến bước,

Và mạnh dạn đi tới, này Sudatta!

An lạc và chân phúc

Đang chờ ông ở phía trước!”

Tiếng nói kia là của thiên chủ Sakka. Sau khi thấy rõ nhân duyên to lớn của ông triệu phú đối với đức Phật và giáo pháp nên vị thiên chủ đã tìm cách khuyến khích, sách tấn. Cho đến lần thứ ba như vậy, trưởng giả Sudatta mới đến được cụm rừng Sītavana.

Khi đó trời vừa hửng sáng, đức Phật đang đi kinh hành ở ngoài trời và đang có ý đợi ông. Thấy trưởng giả Sudatta xuất hiện ở đầu bìa rừng, đức Phật cất tiếng khẽ gọi:

- Hãy lại gần đây, này Sudatta!

Tiếng gọi sao mà quá thân thuộc. Chợt nhiên, trưởng giả Sudatta biết chắc đấy là vị ấy, là “đức Buddha chí tôn của mình” chứ không phải ai khác!

Trưởng giả Sudatta bước nhanh lại và quỳ xuống:“Con đây, hỡi ngài, hỡi đức Buddha chí tôn kính yêu”. Ông lắp bắp. Ông cảm xúc quá! Ông hoan hỷ quá! Ôi! Đức Buddha là vị này đây! Một nhân cách giản dị, bình thường nhưng dường như ở đâu cũng tỏa sáng! Ôi! Nụ cười dịu nhẹ của ngài mới tự tại và siêu thoát làm sao! Dung sắc của ngài sao mà hoàn mỹ như cả mặt trời, mặt trăng đồng long lanh soi rạng! Cái bóng của ngài vừa hiền hòa, vừa uy nghiêm vừa định tĩnh như trùm lấp, thu nhiếp cả không gian xung quanh!

Trưởng giả Sudatta chiêm ngưỡng mãi, không biết nói gì! Lâu lắm, ông mở miệng:

- Đức Buddha có được yên vui không?

Trưởng giả Sudatta thấy câu hỏi của mình thật là ngớ ngẩn, lạc lõng và vô duyên làm sao; nhưng đức Phật lại từ hòa đáp:

- Này Sudatta con! Chắc chắn lúc nào một vị A-la-hán cũng yên vui! Vì bên trong các ngài mọi thứ lửa nung đốt đều đã được dập tắt! Tất cả dục vọng đeo níu, đắm trước đều không còn dư tàn! Tất cả mọi mầm giống ác uế đều đã bị hoại diệt! Tất cả mọi trói buộc, xích xiềng đều đã được gỡ thoát ra! Tất cả mọi đau khổ, phiền não đều đã được đoạn tận! Do vậy, tâm của vị A-la-hán luôn trong sạch, thanh tĩnh và mát mẻ! Tâm vị ấy, như vậy, là đã thành tựu một vương quốc hòa bình, an lạc và chân phúc!

Nghe xong, ngay giây khắc ấy, trưởng giả Sudatta đắc quả Nhập lưu, đi vào dòng thánh! Trưởng giả cảm nhận một cách sâu sắc rằng, mình vẫn là con người cũ thôi, nhưng cái thấy, cái biết, cái trí, cái tâm của ông bây giờ đã đổi khác! Có cái gì đó đã vững vàng, ổn định ở bên trong! Đức tin vắng lặng, trong sạch và thánh thiện ở trong ông dường như vừa nở một đóa kỳ hoa! Trưởng giả Sudatta lặng lẽ quỳ xuống, đảnh lễ đức Phật một lượt nữa với vô vàn sự tri ân và lòng quý kính!

Ngày hôm sau, đức Phật thọ trai tại tư gia của ông anh rể trưởng giả Sudatta, thuyết pháp thuận thứ, khuyến khích sự tu học, đặt cả gia đình vào quy giới rồi trở về Trúc Lâm!

Trưởng giả Sudatta, lúc này, không muốn rời xa đức Phật và hội chúng sa-môn nên ông nghe pháp, chú tâm vào pháp và ông thấy mình thật yên bình và hạnh phúc! Đời sống sa-môn đệ tử Phật với hạnh tri túc, thiểu dục tạo cho ông một ấn tượng quá tốt đẹp về giáo pháp này, hội chúng này có đức Tôn Sư dẫn đầu. Nhìn Trúc Lâm tịnh xá với quy mô nhà giảng, nhà ăn, nhà hội, nhà khách, nhà kho... và cả hàng ngàn cốc liêu rải rác đây đó, nghe nói, trong mùa an cư, chư tăng các nơi vân tập về có thể hơn ba ngàn vị với tam y, bình bát nhẹ nhàng, thanh thoát vào ra... lòng ông bồi hồi xúc động. Trưởng giả chạnh nghĩ đến quê nhà, và ước gì, ở kinh thành của ông cũng có một trung tâm tu học, to lớn, kỳ vĩ hơn cả Trúc Lâm này thì thật là hạnh phúc cho quốc độ!

Hôm kia, trưởng giả Sudatta vào bạch Phật, thỉnh ngài và Tăng chúng về Sāvatthi để truyền bá chánh pháp - hy vọng rằng với giáo lý an bình, thanh tịnh và siêu việt này có thể nhiếp phục chúng ngoại đạo và hóa độ cho nhiều người hữu duyên! Vấn đề đất đai và thiết lập quy mô tịnh xá thì ông sẽ chịu trách nhiệm tìm kiếm, kiến tạo và cúng dường! Đức Phật thấy đây là duyên lành, đúng như sự thấy biết của ngài nên im lặng nhận lời; sau đó gợi ý cho trưởng giả Sudatta hay rằng, đời sống xuất gia phạm hạnh thường thích hợp những nơi vắng vẻ, an tĩnh, không gần mà cũng không xa xóm làng!

Hoan hỷ xiết bao, trưởng giả Sudatta quỳ vập đảnh lễ Phật, rồi ngần ngừ một lát, ông nói say sưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Sāvatthi là kinh đô của vương quốc Kosala, một thành phố thịnh vượng và giàu mạnh ở tây bắc, cư dân đông đúc, mức sống khá cao; tuy nhiên, về mặt văn hóa, so với Rājagaha thì nó chỉ là vùng biên địa xa xôi, nhân dân bản chất thuần hậu nhưng còn hoang dã, mọi rợ, cả tin và cuồng tín! Đây cũng là vùng đất màu mỡ, là thủ phủ lý tưởng cho bọn bàng môn tả đạo lập căn cứ địa lộng hành! Chúng nghênh ngang làm tiền, mê hoặc đám dân đen ngu muội bằng phép lạ, thuật số, bùa chú, ngải nghệ... cùng hằng trăm kiểu cúng tế khác nhau. Thần linh và các ngẫu tượng dâm loạn, ma mị ngồi đầy khắp am miếu, đền đài, bờ sông, đình chợ, đường sá, công viên... với trầm hương nghi ngút, với hoa quả, với đầu súc vật còn tươi máu...

Chúng tu ngồi xổm, hai tay ôm đầu và nhảy với vũ điệu rắn! Chúng tu hạnh quét đất, nằm ra đất mà lạy mà bò! Chúng để râu tóc như cỏ rậm, ở truồng đi tồng ngồng chỗ này chỗ kia, rồi còn chễm chệ trong các điện thờ! Chúng tu hạnh nằm giữa đất, ăn trên đất. Chúng ngồi trong vũng bùn, cống rãnh. Chúng treo ngược người trên cây và ăn mỗi ngày từng hạt, từng trái nhặt được... Còn giới cấp bà-la-môn tại gia, trưởng giáo, trí thức hoặc tư tế thì sống trong những dinh thự, những điền trang kín cổng cao tường như những tiểu vương. Chúng độc quyền liên hệ, đối thoại với thần linh nên chúng độc quyền về lễ tang, cưới hỏi, tế thần, tiểu hỷ, đại hỷ, lạc thành, hướng nhà, hướng cửa, giờ tốt xấu... với những giá cắt cổ, bóp hầu, nặn họng đám lương dân nghèo đói! Chúng thuyết cho tín đồ nghe về con đường khổ hạnh, xả ly, trầm tư, thiền định để thể nhập với Phạm thể ở trên cao; còn chúng thì sống phong lưu ở dưới này để hưởng thụ mọi thứ xa hoa, dục lạc!

Bạch đức Thế Tôn! Có lẽ do duyên lành vạn kiếp, mặc dầu bị bên này vận động, bên kia kéo lôi nhưng đệ tử vẫn trơ trơ không theo bọn chúng, không ngả theo đạo nào! Nhờ vậy, đệ tử mới hạnh ngộ đức Thế Tôn và tăng chúng thánh hạnh; được nghe giáo pháp trong sáng, lành mạnh và tốt đẹp nhất trần đời. Do vậy, kinh đô Sāvatthi, quê hương của đệ tử, cần thiết phải có mặt giáo pháp vô thượng của đức Thế Tôn! Rác và bụi trong mắt mọi người cần phải được lau quét sạch sẽ! Cuồng tín và ngu si cần phải có ngọn đèn trí tuệ chiếu soi. Những hôi hám, dơ dáy, bẩn thỉu trong các sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh cần phải được làm cho thanh khiết, thanh tịnh!

Bạch đức Thế Tôn! Khái quát như vậy để biết rằng, đến Sāvatthi sẽ gặp vô vàn khó khăn, phức tạp; chắc chắn sẽ có nhiều thành phần chống đối, phá hoại từ nhiều phía! Ngoại trừ đức Thế Tôn hoặc các vị đại trưởng lão nhiều tuệ lực, nhiều thần thông lực chớ khó ai có thể đảm nhận trọng trách cam go này, từ việc đặt viên đá xây dựng cơ sở cũng như đặt viên đá giềng mối đầu tiên cho giáo pháp!

Đức Phật và một số các vị trưởng lão lắng nghe chăm chú, rất chăm chú những nhận thức đúng đắn của trưởng giả Sudatta rồi ngài nói với ông:

- Ừ! Như Lai cũng biết là sẽ rất khó khăn! Bất cứ sự cảm hóa, cải thiện nào, mặc dầu có lợi ích vẫn bị sự phá hoại, chống đối từ nhiều phía. Đương nhiên pháp thế gian là vậy! Con người không dễ dàng thay đổi một thói quen, nhất là những thói quen đã biến thành lễ nghi, tập quán cắm rễ, ăn sâu trong truyền thống từ đời này sang kiếp nọ!

Tôn giả Sāriputta chợt quỳ thưa:

- Tuy nhiên, giáo pháp giác ngộ, giải thoát cần phải được xiển dương, cần phải được tăng trưởng, lớn mạnh, cần phải đi vào lòng người và xã hội! Giáo pháp của trí tuệ và từ bi phải là ánh sáng, là ngọn đèn dẫn đường cho những tâm thức nô lệ, yếu hèn và ngu muội! Chúng đệ tử của đức Tôn Sư phải biết giương cao ngọn cờ muñja, ngọn cờ của bậc thiện trí! Phải biết vô vi, vô dục mở rộng vòng tay đón nhận những chúng sanh lưu lạc quay về! Phải biết bình lặng như đại địa, kham nhẫn như đại địa để tùy duyên mà giáo hóa nhân quần!

Đức Phật mỉm cười:

- Vậy này Sāriputta! Ông hãy nghiêng vai mà nhận lãnh trách nhiệm ấy! Tất cả mọi khó khăn vào buổi đầu, Như Lai giao phó cho ông đấy!

Tôn giả Sāriputta cúi đầu lạy tạ. Trưởng giả Sudatta xin thưa tiếp:

- Với quy mô xây dựng như Trúc Lâm này, đức Thế Tôn thấy nó thuận lợi hoặc chưa thuận lợi cho sinh hoạt của Tăng chúng hiện nay và cả sự phát triển trong tương lai nữa?

Biết ý ông triệu phú chưa hài lòng lắm các công trình xây dựng ở Trúc Lâm. Mặc dù đức vua Seniya Bimbisāra đích thân chỉ đạo, không ngại tốn kém công quỹ, sự đóng góp của hoàng gia; nhưng ông cũng không ngờ là giáo hội phát triển quá nhanh nên những buổi thuyết giảng lớn, cả hàng ngàn người thì giảng đường đã trở nên chật hẹp! Tăng chúng tạm cư chừng vài ngàn vị thì đây đó đã phát sanh nhiều vấn đề từ chỗ ăn ở, vệ sinh, nhà kho cũng như rác thải phải được tính toán kỹ lưỡng xa rộng hơn! Nghĩ vậy, đức Phật mỉm cười nói:

- Ông là người có đầu óc, có tầm nhìn, này Sudatta! Như Lai hiểu rất rõ những điều đằng sau câu hỏi của ông! Hôm nào lên đường về lại Sāvatthi, sa-môn Sāriputta sẽ đi cùng với ông! Đệ tử trưởng ưu tú của Như Lai có khả năng thay mặt Như Lai để đối thuyết với các giáo phái chủ, giáo phái sư và chúng ngoại đạo ở đấy; và, còn có trí biện tài, đức độ để nhiếp phục họ! Sāriputta không những rành rẽ môn kiến trúc mà còn là một nhà địa lý, thiên văn có thực học nữa, có thể cố vấn, tham mưu cho ông trưởng giả nhiều lãnh vực, khỏi phải lo ngại điều gì!

Được lời như mở tấm lòng, trưởng giả Sudatta hớn hở lên đường; và bên cạnh, được núp bóng tàn đại thụ của giáo pháp là tôn giả Sāriputta!

Hôm ra đi, biết trưởng giả Sudatta nôn nóng về Sāvatthi tìm kiếm đất, tôn giả Sāriputta thông cảm nhìn ông, nói:

- Vị tỳ-khưu chỉ đi bộ, không đi các loại xe, vậy ông cứ khởi hành bằng cỗ xe ngựa tốt, đừng để ý đến ta. Tuy nhiên, chỗ nào ông dừng chân hoặc muốn gặp ta để học hỏi về giáo pháp thì tức khắc, ta sẽ có mặt ngay bên cạnh ông!

Và quả thật như vậy, kỳ diệu xiết bao! Suốt trên đường đi, hễ khi thắc mắc điều gì thì tôn giả Sāriputta như tự trên trời rơi xuống, như từ đám mây trắng mà hóa hiện thành người! Và ông đã học hỏi được quá nhiều điều, nhiều hơn cả trí tưởng của ông về những điểm khác biệt đặc thù về giáo pháp của đức Phật so với các tôn giáo truyền thống, các tín ngưỡng cổ sơ của các sắc tộc trong nhân gian. Ngoài ra, tôn giả Sāriputta còn tận tình và cặn kẽ giải thích các biểu tượng thờ cúng của đạo bà-la-môn, các lễ thánh tẩy, tắm nước sông Gaṅgā, cầu nguyện thần linh... chỗ nào là nội dung tư tưởng khả thủ, chỗ nào là hình thức mù quáng, bá vơ! Ôi! Vị đại đệ tử này đúng là đức Phật thứ hai, chẳng có gì mà tôn giả ấy không thấy, không biết!

Đúng là cơ ngơi của ông triệu phú chủ tịch nghiệp đoàn buôn bán vàng bạc và đá quý nổi danh kinh đô Sāvatthi: Dinh thự nguy nga, lầu đông lầu tây, tòa ngang dãy dọc nhiều không xiết kể, hằng trăm gia nhân xuôi ngược tới lui! Vừa về đến nhà là trưởng giả Sudatta vội triệu tập tất cả mọi người tại đại sảnh, thỉnh mời tôn giả Sāriputta ngồi chỗ ngồi cao và sang trọng nhất, bảo mọi người cùng ra mắt, đảnh lễ ngài. Tôn giả thuyết một thời pháp ngắn gieo duyên với gia đình hiền thiện này. Punnalakkhaṇā, phu nhân của trưởng giả, còn khá trẻ, đoan trang, hiền thục rất hoan hỷ khi nghe pháp. Ba cô con gái là Mahā-Subhadda, Culā-Subhadda và Sumana đều lắng nghe chăm chú. Riêng chú bé trai, tên là Kāla lại lơ đễnh, có vẻ ngỗ nghịch, ham chơi.

Trưởng giả Sudatta thỉnh mời tôn giả ngụ riêng nơi một căn lầu, nhưng ngài mỉm cười lắc đầu, bảo ông cứ lo công việc của ông, hãy để cho những cánh chim trời được tự do, thung dung đây đó. Thế là tôn giả Sāriputta ôm bát ra đi: Ngài muốn nắm bắt tình hình tôn giáo, tín ngưỡng cũng như các sinh hoạt nhân sinh, xã hội của kinh đô trù phú nầy!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5103)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5542)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4399)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 4950)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4528)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5241)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4737)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9470)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4869)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4112)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]