Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền sư Thích Nhất Hạnh thăm World Bank

13/09/201310:44(Xem: 11126)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh thăm World Bank
ThichNhatHanh_wb-president-1


Có lẽ Chủ tịch Jim Young Kim thấy nhân viên của World Bank (WB) đang bị sức ép thay đổi đè nặng lên vai nên đã đích thân mời Thiền sư Thích Nhất Hạnh tới thăm và nói chuyện.

Anh Nguyễn Anh Tuấn, cựu TBT ở VietnamNet, hiện là Tổng Biên Tập Diễn đàn toàn cầu Boston, đã gọi điện nhắc nhở tôi tham dự vì một người Việt ở Làng Mai (Pháp) nổi tiếng khắp thế giới, tựa như Dalai Lama của Tây Tạng. Buổi nói chuyện kéo dài gần 2 tiếng, người dự đông nghịt, dù là đầu tuần. Ngày mai, Thiền sư sẽ có buổi giảng trực tiếp về thiền cho những người đăng ký.

Theo thông báo của ban tổ chức, người muốn dự khá đông và chỗ thì có hạn. Nhân viên phải xin phép nghỉ trọn một ngày để nghe giảng và thực tập về thiền.

Đi theo Thiền sư, đoàn Làng Mai có tới mấy chục thành viên từ khắp thế giới, từ Pháp, Việt Nam, New York, California… Lần đầu mình thấy người phương Tây trong trang phục sư, chứng tỏ ảnh hưởng của Làng Mai trên thế giới là khá lớn.

Trong lúc đợi, thấy một vị ngồi trên hàng ghế đầu, mình tiến tới làm quen. Không biết xưng hô nên cứ gọi là sư thầy và xưng con. Mãi sau mới biết đây là sư cô Chân Không. Tự giới thiệu và bắt chuyện một lúc, mình cũng nói, ngoài làm việc ở WB, còn là Blogger Hiệu Minh. Sư cô mỉm cười thân thiện, anh Nguyễn Anh Tuấn đã giới thiệu từ trước rồi.

Mình cực kỳ lúng túng, chẳng biết xưng hô thế nào cho phải đạo, vì lần đầu tiếp xúc với sư. May quá, sư cô Chân Không giải thích cặn kẽ, sư có nhiều thứ bậc, khá phức tạp. Để cho tiện, Thiền sư Thích Nhất Hạnh được gọi là sư ông. Còn cô là nữ nên gọi là sư cô, chắc là tu khá lâu rồi. Sư cô Chân Không gọi mình là “em” nên thấy thoải mái hơn, bắt chuyện dễ dàng.

Sư cô kể, mỗi người chúng ta đều có một phần tinh hoa của cha, của mẹ từng tế bào. Giỏi giang, tài ba, không phải do người đó tự có, mà do cha mẹ kết mà thành. Có một anh rất giỏi toán, chỉ cần đưa ra ví dụ ngày 22-2-2014, thì anh có thể nói ngay đó là thứ 7. Đầu óc điện tử của anh không phải do anh tạo nên mà nhờ vào phần tinh túy của cha và mẹ. Anh giỏi thì phải cảm ơn cha mẹ. Hiệu là Chân Không – không có ta riêng biệt – một kiểu tu đã đắc đạo.

Có lẽ đến WB, một nơi chuyên xóa đói, giảm nghèo cho thế giới, nên Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể về thời thơ ấu của mình, sống trong nghèo khó. Những năm 1960, chiến tranh liên miên, sống ở miền Trung, ngay cạnh vĩ tuyến 17 bom đạn, nhưng sư ông đã cùng phật tử lo giúp người nghèo.

Chuyện đơn giản như cái nhà vệ sinh cho nông dân cũng phải làm mẫu, giúp cho họ hiểu “công nghệ” rồi nhân rộng. Đôi khi, lớp học bắt đầu dưới gốc cây đầu làng. Trẻ em đến đông hơn, rồi bị mưa gió nên phải vào nhà tạm.

Chờ đợi chính phủ chắc còn lâu nên các vị sư đi vận động đóng góp. Người góp cây tre, người góp vài gánh tranh, người góp công, giầu hơn thì đóng tiền. Cứ như thế, việc làm từ thiện được nhân rộng. Muốn xóa đói giảm nghèo, ta hãy bắt đầu từ chính bản thân trước. Nội lực sẽ giúp cho người nghèo vượt lên.

Đôi lúc kể về những ngày đã qua, Thiền sư như lặng đi, hội trường im phắc khi nhắc đến chiến tranh, bom đạn và mất mát.

Thiền ở tại tâm. Ảnh: HM

Thiền ở tại tâm. Ảnh: HM

Ông kể cuộc gặp Martin Luther King (MLK) trong một bữa sáng. MLK từng đề cử Thiền sư vào giải Nobel hòa bình. Cả hai trao đổi về cuộc chiến phi nghĩa và đồng ý cần có những bước đi nhằm thay đổi tư duy bom đạn bằng hòa bình. Rất tiếc, sau đó MLK bị ám sát, giấc mơ của hai người theo đuổi đấu tranh bất bạo động dang dở.

Tháng 4 năm 1965, đoàn sinh viên Vạn Hạnh, trường đại học do ông sáng lập, đưa ra thông điệp vì hoà bình “Đã đến lúc hai miền Bắc-Nam của Việt Nam họp lại để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho mọi người Việt Nam cuộc sống hoà bình với lòng tôn trọng lẫn nhau”.

Phải 10 năm sau, với bao nhiêu máu đổ của cả hai bên, hòa bình mới có, nhưng di chứng sau gần 40 năm vẫn còn đó. Thiền sư có nhắc đến vụ tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức tại Sài Gòn năm 1963. Ông cho rằng đây là tín hiệu gửi cho cả thế giới, vì muốn mọi người hãy lắng nghe tâm tư của những người khốn khổ. Việc tự thiêu hoàn toàn không liên quan đến cổ vũ cho bạo lực.

Sau đó Thiền sư có nói về triết lý thiền. Có lẽ ông đã đạt đến đỉnh cao về tu nhân tích đức nên có thể gói gọn trong vài câu đơn giản nhưng trở thành nổi tiếng.

“Lắng nghe và thấu hiểu những đau khổ trong nội tâm sẽ giúp chúng ta giải quyết được hầu hết các vấn đề ta gặp phải”.

“Muốn chữa lành cho người khác, trước tiên ta cần tự chữa lành cho chính mình. Để làm được điều đó, ta phải biết cách giải quyết những vấn đề của bản thân. Tuy nhiên, hầu hết mọi người không biết lắng nghe và thấu hiểu những nỗi khổ của chính mình”.
ThichNhatHanh_wb-president-3

Do cuộc sống hiện đại với công nghệ thay đổi chóng mặt, thế hệ trẻ có xu hướng không muốn đối mặt với nguồn gốc của những khó khăn, thách thức, kể cả khổ đau, mà lại tìm cách giải tỏa bằng vật chất.

Ông khuyên “Suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta là những điều gây ra sự tức giận, sợ hãi và nghi ngờ cho người khác. Bởi vậy, chúng ta không thể đổ lỗi cho họ mà nên sử dụng ngôn ngữ để hiểu nhau hơn, cũng không nên chỉ trích, buộc tội khi đang lắng nghe họ nói”.

“Người mắc tội với ta thì bản thân họ đã tự chuốc lấy đau khổ vào người.” Có lẽ thế mà đúng thật. Tổng thống Assad từng gây tội ác chống dân tộc mình nên ông đang chuốc lấy hậu họa.

Một người nghe hỏi về công nghệ IT hiện có làm thay đổi cách truyền đạo thiền không, Thiền sư đùa vui, ông dùng telephone lần cuối cách đây 30 năm và cho đến thời điểm này, cách truyền thông của ông vẫn thấy ổn. Cả hội trường cười ồ.

Thiền sư biết làm cho người nghe không chán về đạo thiền, có vẻ mới tại WB. Có người hỏi làm sao tránh được stress, bị công việc thúc đẩy đúng hẹn. Dường như Thiền sư đã nắm chắc triết lý hạnh phúc là tại tâm, đỉnh cao là ước vọng khó mang tính định lượng, người ta chỉ có thể chọn một trong hai, hoặc hạnh phúc hoặc là số 1.
ThichNhatHanh_wb-president-2

Ông nhắc đến triết lý, hôm qua là quá khứ, không thể kéo lại được, ngày mai là tương lai chưa chắc chắn. Vì thế cuộc sống hiện tại mới quan trọng. Thiền sư nói có sở hữu chiếc đồng hồ không có số 1, 2, .. 12 như thường lệ, mà chỉ có chữ now, now, now (hiện tại), để nhắc nhở về thời ta đang sống. Người nghe thán phục sự uyên bác của diễn giả.

Sau này đọc thêm, tôi mới biết, Thiền sư hiện 87 tuổi, không thể tin vào mắt mình. Ông rất nhanh nhẹn và uyên bác, nhà hoạt động toàn cầu về giáo phái thiền, được yêu mến và kính trọng trên khắp thế giới. Thiền sư từng đến Quốc hội Mỹ, Anh, Ấn độ, UNESCO và gần đây sang Hàn Quốc giảng về thiền, về hòa bình, chống chiến tranh. Theo ông, các chính trị gia cần biết lắng nghe, hiểu Phật giáo thì sẽ biết hòa giải và yêu thương.
ThichNhatHanh_wb-president-4

Mấy hôm trước, viết về hai ông người Hàn Quốc là Jim Young Kim, chủ tịch WB, và Ban Ki Mon, Tổng thư ký UN, tôi mơ người Việt tới WB nói chuyện và được người nghe chăm chú. Hôm nay, một phần của giấc mơ đã thành sự thực.

Tiếng Anh của Thiền sư trôi chảy, từ body language (ngôn ngữ cơ thể), đến nội dung chuyển tải rất rõ ràng, chẳng cần một chút giấy tờ. Mọi thứ cứ như tuôn như suối từ trong tim và khối óc của người nói. Gần 2 tiếng mà người nghe vẫn muốn cuộc nói chuyện tiếp, đông người xếp hàng đợi hỏi nhưng thời gian có hạn nên đành thôi.

Nơi đây thường mời chính khách như Bill Clinton, Hillary Clinton, Tony Blair, Al Gore, Ban Ki Mon và nhiều nhà kinh tế, khoa học được giải Nobel…tới đàm đạo. Hôm nay Thiền sư xuất hiện, hẳn nhiều người Việt tại tổ chức quốc tế này cảm thấy tự hào.

Có một câu hỏi của đồng nghiệp đọng mãi trong tôi. Anh nói, sức mạnh mềm của Việt Nam là văn hóa thiền, còn tìm đâu xa. Tại sao ngài Thích Nhất Hạnh và Làng Mai, một cái tên thuần Việt, được cả thế giới ngưỡng mộ về kiến thức và kính trọng về nhân cách, lại ngụ cư ở nước Pháp xa xôi.

Quốc gia nào cũng có người xuất chúng. Vấn đề là sử dụng chất xám, sức mạnh mềm và nền văn hóa như thế nào trong phát triển. Lãnh đạo biết triết lý của đạo thiền, biết sống tại tâm, biết hướng tới Chân Không như vị sư nữ, biết tự hỏi mình như Thiền sư và các đồng môn Làng Mai, thì dân sẽ noi theo và đất nước đó sẽ vượt lên.


Thich Nhat Hanh3
(Xem trang tác giả Thiền Sư Nhất Hạnh)



Hiệu Minh. 9-9-2013
http://hieuminh.org/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4987)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5219)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8005)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6145)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5624)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4265)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9178)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5732)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7042)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5744)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]