Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chọn một đường tu

06/09/201308:33(Xem: 8624)
Chọn một đường tu

Dong_Y_Sy

Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông.

Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà. Trong khi chờ bố tôi về, cụ tò mò hỏi tôi:

- Cháu có lá số tử vi không, đem đây ông đoán xem?

Tôi gật đầu:

- Dạ có.

Rồi tôi lục hồ sơ tử vi của gia đình, rút ra lá số của tôi.

Sau khi xem xong, câu đầu tiên cụ phán:

- Cháu có số đi tu!

Tôi hơi ngạc nhiên, chau mày mỉm cười rồi lắc đầu nguầy nguậy:

- Bẩm cụ, xưa nay cháu không thích đi chùa, không thích tụng kinh làm sao đi tu được?

- Lá số có sao Thiên Phủ thủ mệnh. Thiên Phủ là sao cực kỳ tốt trong làng tử vi và rất hiền lương. Sao này không tu ở chùa thì cũng tu ở nhà.

Tôi không tin, nhưng không cãi lại, chỉ cười thầm và chả thắc mắc gì thêm. Tuy vậy tôi vẫn ngồi yên lắng nghe cụ phán tiếp:

- Lá số này thật lạ. Ở cung phu, nếu cháu bỏ chồng (lúc đó chồng tôi đang ở trại cải tạo) để bước thêm bước nữa thì cháu sẽ có tới ba chồng lận.

Chao ôi, tôi lại tròn mắt ngạc nhiên. Mới một chồng đời tôi đã “điêu đứng„ thêm hai ông nữa chắc tôi “điêu ngồi„ rồi “điêu nằm„ luôn!

Lời ông cụ đoán, tôi chưa nghe bố tôi nói đến bao giờ. Cứ nghĩ là “bói ra ma, quét nhà ra rác„ tôi nghe cho vui tai rồi để lời ông cụ bay dần theo gió.

Đoán xong, ông cụ cáo biệt ra về, không đợi bố tôi. Từ đó ông không trở lại bao giờ. Còn tôi, với những bận rộn cuộc sống, tôi quên mất ông và cả lời đoán của ông. Mãi 6 năm sau, khi tôi một mình vượt biên định cư tại Thụy Sĩ, thời gian đằng đẵng chờ đợi chồng tôi, tôi thui thủi một mình trong căn phòng nhỏ, ra vào chả thấy ai, tôi sực nhớ lời ông cụ, mới thấy đời sống tôi như một ni cô “trụ trì„ trong “am„ nhỏ. Thê thảm nữa, am không có tín đồ!

Tôi…tu như vậy có tới 13 năm 2 tháng 10 ngày, mốc thời gian tính từ năm 1975 cho tới lúc tôi gặp một “tín đồ„ duy nhất đó là Lam, chồng tôi.

Như vậy kể như lời đoán của tiên ông về cung phu của tôi “ba chồng„ không còn hữu hiệu. Hồi tôi còn trẻ, tuổi xuân còn phơi phới, ở tình trạng “chim xổ lồng„ chả ai buồn…rước, nay tôi “nửa chửng xuân„ già rồi, lại thêm có “kỳ đà„ bên cạnh, ai dại…rinh chi cho đổ nợ, không chừng còn bị ăn đấm, phải không? Thế thì cái chuyện đi tu của tôi theo lời tiên ông, tôi cần nghiệm lại.

Ngày Lam đoàn tụ cùng tôi tại Thụy Sĩ, cũng là lúc phong trào hoạt động Phật giáo khởi sắc, không riêng gì ở Thụy Sĩ mà cả Âu Châu hay nói rõ hơn khắp hải ngoại. Nhưng như đã nói ở trên, tôi vốn không thích đi chùa, không thích tụng kinh và càng không thích ngồi thiền. Ai ngồi thiền thì tâm tịnh, chứ riêng tôi, hễ ngồi yên, ngồi thiền là tâm động mạnh nhất, đầu óc tôi đi hoang, lang thang khắp đó đây như tâm viên ý mã, không nhắm hướng thiên đàng, niết bàn để trụ, mà lại hướng về địa ngục đầy ma quỉ mới chết chứ! Nên vì thế, bạn rủ rê đi chùa là tôi lắc đầu nguầy nguậy và cũng vì thế tôi không để ý nhiều về tôn giáo trước đây.

Cuộc sống mới: Một cái…am nhỏ với hai quả tim vàng, tôi dung dẻ với niềm vui mới, bận rộn mới, tôi lại quên mất tiên ông và lời đoán của tiên ông. Tôi càng không để ý đến sinh hoạt chùa chiền.

Đạo Phật quan niệm rằng, mọi sự khởi đầu bằng nhân duyên. Từ cái này mới sinh ra cái kia. Hay phải đợi đủ nhân duyên như hạt giống cần phân bón, đất cát, nắng mưa và thời gian mới nãy mầm sinh cây, lá hoa rồi quả vậy.

Thử nhìn lại chính tôi, tuy chưa gọi tích cực, nhưng là lúc tôi thích mon men đến chùa, tìm hiểu giáo lý Đức Phật và nhất là thích tham dự các khoá tu học Phật Pháp Âu Châu mặc dù phải đợi tới khóa thứ 7 mới có sự hiện diện của tôi. Tại sao? Lẽ đương nhiên tất cả bắt nguồn từ một nhân duyên.

Bao năm qua khi đặt chân đến Thụy Sĩ, hai bộ môn tôi rất yêu thích và thường sinh hoạt đó là văn nghệ trình diễn và báo chí. Vì yêu, tôi thường tham gia và theo dõi hai lãnh vực này.

Một ngày tình cờ đọc báo Viên Giác, khóa tu học Phật Pháp Âu Châu sẽ tổ chức tại Thụy Sĩ ( mỗi năm luân phiên tổ chức tại mỗi nước trên khắp Âu Châu). Năm đó, có lẽ là khóa thứ 4, tổ chức trên sân nhà mà tôi cũng không tham dự, tuy nhiên, cũng bởi sân nhà, khiến tôi có một chút -chỉ một chút thôi nhé- quan tâm.

Tôi liền điện thoại hỏi Huệ, cô bạn gái có tâm đạo và rất sốt sắng chuyện Phật sự, cô là trưởng ban trai soạn cho khoá học năm đó:

- Huệ à, khóa tu học Phật Pháp Âu Châu năm nay tổ chức tại Thụy Sĩ có…văn nghệ không vậy?

Huệ ầm ừ:

- Thường cũng có đó vào dịp cuối khóa, do anh em Gia Đình Phật Tử đảm trách.

- Vậy Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ đã có mục gì chưa?

- Huệ cũng không rõ nữa, nhưng dường như chưa thì phải.

Tôi tích cực:

- Vậy Trân đề nghị, nếu anh em cần, Trân giúp cho nha. Người ta là khách lại nhà, mình chủ nhà “tiên chủ, hậu khách„ mình phải có cái gì bày ra trước chứ.

Thế là độ vài tháng sau, anh em Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ “thỉnh„ tôi từ St.Gallen đến Winterthur (khoảng 45 phút xe hơi) tập màn múa sạp. Múa sạp là một màn vũ sống động, nhộn nhịp, nhảy trên những ống cây đập vào nhau. Với điệu vũ này, chủ nhân có thể mời khách phương xa nhập cuộc cùng nhau nhảy và nếu ai đó bị kẹp chân, như thế dễ dàng tạo tình thân ái và biết đâu đấy từ “kẹp„ có thể “cột „chân người…xấu số hay tốt số (?) ở lại Thụy Sĩ luôn. “Đến đây phải ở lại đây „một bài hát có câu như vậy mà!

Từ màn vũ đó, như tạo duyên để lễ Phật Đản năm sau, anh em lại…thỉnh tôi giúp văn nghệ nữa. Ca múa là…nghề của nàng mà! Tôi không từ chối, lại thêm, thời gian làm việc với anh em, tuy ngắn ngủi, nhưng tôi nhìn ra tấm chân tình cũng như tinh thần phục vụ rất cao của anh em. Tại sao chị Thông, vợ của anh Liên Đoàn Trưởng, cuối tuần không nằm nhà coi phim tập, hay xòe bài như một số các người vợ khác lại phải bưng từng thố cơm, đĩa rau, bát canh, sắp ly chén dĩa vv…nhọc nhằn lo cơm nước cho mọi người? Tại sao anh Trọng, một huynh trưởng trong Gia Đình Phật Tử không dành tiền với đồng lương giới hạn của mình ở tình trạng “gà trống nuôi con„ mua một chiếc xe hơi nho nhỏ, xinh xắn để phục vụ bản thân mà lại mang về chiếc xe bus cũ kỹ 11 chỗ ngồi chở anh em đi sinh hoạt hay mọi người đi chùa? Và còn nhiều sự hy sinh khác nữa của anh em…kể sao cho hết. Thâm tâm, tôi cảm mến tinh thần xả thân của anh em, tự hỏi, tôi cũng là người đạo Phật sao bấy lâu tôi lại vô tình? Một tình cảm thân thương vô tình gắn bó ràng buộc tôi với anh em GĐPT, tôi bị cuốn theo tình đời nghĩa đạo đó. Phần nữa đến với anh em, tôi cũng không xa lạ lạc lõng gì, vì từ bé, lúc 6 tuổi, tôi đã từng sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử ngành Oanh Vũ. Bây giờ có trở về với anh em, tôi như con chim bao năm lạc đàn tìm lại tổ xưa.

Rồi tôi tham dự khóa Lộc Uyển, một chương trình đào tạo huynh trưỏng; khóa tu học hằng năm của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu và nhất là thích đi chùa Viên Giác. Ở những nơi đó, tôi tìm thấy được sự thanh thản của tâm hồn, tìm thấy niềm vui trong tình đồng hương khỏa lấp nỗi trống trải bao lâu âm thầm trên đất khách cùng học hỏi được nhiều chuyện đời, việc đạo.

Cuối cùng tôi rút cho tôi một đáp số: Đạo là kim chỉ nam, là con đường hướng dẫn tôi đạt tới chân thiện mỹ của cuộc sống. Tuy nhiên con đường nào, nhất là đường về chân trời thường đầy chông gai thử thách và giáo lý của Đức Phật như những lời nhắc nhở cổ võ để dắt tôi đi nốt đọan đường.

Kiến thức về Phật Pháp của tôi còn rất đơn sơ, mới chỉ lạng quạng bên lề, như kẻ mới lạc vào vườn trầm thôi. Tuy nhiên, chỉ cần phảng phất một chút hương và tận tình thưởng thức chút hương đó cũng đủ cho tôi ngây ngất.

Một trong mười điều tâm niệm của Đức Phật: Lấy khúc mắc làm thú vị để sở học được thấu đáo; lấy khó khăn làm thích thú; lấy người chống đối làm nơi giao du vv…Rồi Lục Hòa: Thân hòa đồng trú vui vẻ hòa đồng cùng mọi người; Giới hoà đồng tu chấp nhận và gìn giữ những kỷ luật chung; Kiến hòa đồng giải mọi ý kiến được chia sẻ trao đổi để học hỏi nhau vv…Chỉ bấy nhiêu thôi khiến tôi thường suy gẫm. Và vấn đề chỉ còn là, tôi áp dụng được và đúng hay không?!

Từ sau khi như vừa khám phá một chân trời mới lạ, cũng là lúc tôi nhìn ra sự vô vị của cuộc đời. Nhớ lại những nỗi gian truân vất vả đã trải qua, tôi thường tự hỏi bâng quơ: Sống để làm gì? Tại sao con người hằng ngày cứ phải phấn đấu để sống và sống tức là đang đi dần vào cõi chết vì sự chết là một phần thuộc vào đời sống không ai tránh khỏi. Rồi từ ý nghĩ đó, và vào những lúc buồn vu vơ “Hôm nay trờinhẹ lên cao, tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn„ tôi chợt có ý nghĩ…đi tu! Rồi lại lẩn thẩn tự hỏi, đi tu có giải thoát không? Đi tu có vui không? Nếu đi tu để tìm niềm vui thì…tu có được không? Và nơi đó có phải là nơi cho mình…giải trí?!

Tôi nhớ có lần gặp sư cô Thanh Hà tại khóa học Âu Châu, sư cô “dụ„ Phật tử: Đi tu dzuilắm! Độc cư nhàn cảnh, ở một mình dzuilắm!„ Tôi không rõ niềm vui của sư cô lúc đi tu như thế nào, chứ “ở một mình„ được tự do, muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu thì đi, thoải mái vô cùng (tôi đã từng sống qua), chắc chắn là…dzui lắm, nhưng với tôi bây giờ, “ở hai mình„ tôi cảm thấy…dzui hơn!

Tôi đem ý nghĩ “đi tu„ bàn với Lam. Chàng cười:

- Em tu…hú! Rồi lơ đãng vừa xem tivi chàng vừa nói tiếp:

- Em có tâm hồn ăn uống,ăn rau một bữa bủn rủn tay chân. Tu gì được!

Tôi nguýt một cái có đuôi:

- Hứ, hai khóa tu học vừa rồi, em ăn chay mười ngày liên tiếp có sao đâu.

Chàng lại cười:

- Có… trăng thôi, chứ đâu có… sao!

Tôi nghiêm giọng:

- Tử vi của em, tiên ông nói có số đi tu đó.

Lam hỏi:

- Tiên ông nào?

- Tiên ông là ông tiên, ông già râu tóc bạc phơ.

- Bố cũng râu tóc bạc phơ, đoán được tử vi, bố đâu có nói.

Tôi cười:

- Có ông bố chồng nào nói con dâu có số đi tu, dù biết rõ, để bỏ con trai ông sống đời hiu quạnh?!

Chàng bực:

- Muốn đi tu thì đi đi. Đi sơm sớm để anh còn tính!

Tôi cười, ghé tai chàng hỏi nhỏ:

- Tính lấy vợ khác phải hôn? Đã nhắm được…cụ bà nào thế?

Thật ra nhận xét của Lam không xa thực tế. Nêú đi tu tức là từ đây tôi phải dứt bỏ mọi thứ. Còn đâu những bữa cơm với các món vịt xào Triều Châu, vịt quay Bắc Kinh, lẫu vịt nấu chao, gà tiềm thuốc Bắc, cá hấp xì dầu, bò nhúng dấm mắm nêm, chim rô ti, tôm bọc thịt gói với tàu hủ ky, cua rang muối, mực nhồi nhưng, và đặc biệt nhất là hột vịt lộn vv…và vv…những món mà ăn chay không nấu giả được. Rồi về mặc thì…còn đâu những bộ váy, bộ đầm tân thời, những chiếc quần sọt, quần tây hấp dẫn, những chiếc áo dài duyên dáng..vv… để chỉ thay vào đó không quá ba bộ quần áo dành cho người tu hành trong giới hạn màu sắc: vàng, nâu, lam nhạt nhẽo. Rồi còn mái tóc nữa. Chao ôi, còn đâu mái tóc đuôi gà, húi cua, xì tôn xổ ngang, chẻ dọc…để phải cạo trụi lũi như chiếc gáo dừa. Đẹp gì nữa chứ? Rồi còn chiếc “gối ôm„? Chà, chiếc gối ôm mới đặc biệt làm sao! Chiếc gối ôm…biết nói biết cười, biết hủ hỉ thủ thỉ thật ấm áp trong những mùa Đông giá lạnh. Tất cả, tất cả từ bỏ hết. Có nổi không?! Chắc chắn không phải dễ dàng!

Khi nhìn ra cái “dục„ tầm thường của mình, của người phàm phu tục tử, tôi càng tôn kính sự hy sinh, lòng dũng cảm, chí nguyện xuất trần của các bậc chân tu Phật giáo. Có vị, ngày ngày chỉ dưa cà tương chao, sống khổ hạnh, vượt qua mọi cám dỗ thường tình vật chất. Còn tôi, không lẽ tầm thường vậy sao?! Mơ hồ, tôi cảm thấy có sự bất ổn, mâu thuẫn trong lòng. Một sự dằng xé, ám ảnh trong lời đoán của tiên ông. Tôi không phi thường, nhưng ít ra cũng đừng tầm thường như vậy. Không, không đâu. Tôi không nhất thiết phải là ni cô, nhưng thực sự trong cuộc sống để phụng sự một lý tưởng, tôi cũng có thể từ con một thương gia tuy không hẳn sống trên nhung lụa, nhưng muốn gì được nấy, cũng cao lương mỹ vị, chưa biết thiếu thốn là gì để chấp nhận đời sống thanh bạch của Lam, nhất là sau năm 1975, tôi đã từng suốt vài năm trời, ngày nào cũng độc nhất món: Cơm độn đậu xanh (đậu xanh có vỏ) ăn với đường; thức ăn chỉ độc đĩa rau muống luộc. Một phần, tôi chiều theo khẩu vị của bố chồng tôi. Cụ luôn đưa thực đơn giải thích theo y học đông phương, đậu ăn vỏ là đủ âm dương quân bình cơ thể, không hàn, không nhiệt, đầy bổ dưỡng, tâm bình, có lẽ nhờ vậy mà tôi ăn rất ngon và ngủ rất yên hay tại căn bản có chất “tu„ do sao Thiên Phủ chiếu!

Đạo Phật quan niệm cuộc đời vô thường. Có những sự việc biến đổi bất ngờ không ai lường trước được. Biết đâu đó, khi tôi hội đủ nhân duyên, khi tôi giác ngộ “quán„ được tính không “sắc sắc không không, không không sắc sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc„ của đạo Phật, tôi trở thành ni cô không chừng? Nhưng đợi đến lúc tôi…quán, tôi hưởng thụ hết cả cuộc đời mới đi tu thật…quê xệ. Thôi thì, việc gì đợi, cứ phải đợi; việc gì đến nó sẽ đến. Khi nào tôi thành ni cô chính hiệu, tôi sẽ thông báo để quí vị viếng…chùa tôi nhé!

Còn bây giờ, tạm thời trong 84 ngàn pháp môn Đức Phật dạy để tu, tôi xin chọn “tu tại gia„ như theo tục ngữ Việt Nam có câu: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa„. Tu tại gia “tứ bề thọ địch„ đụng chạm lung tung, phấn đấu được để đem an lạc cho mình, cho người cũng không phải dễ. Và...tu tại gia, đối với tôi, “ở hai mình„ tôi vẫn thấy...dzuihơn!

Trần Thị Nhật Hưng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5155)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5582)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4435)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 4987)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4570)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5281)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4778)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9502)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4883)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4122)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]