Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Mẹ

27/07/201305:33(Xem: 9635)
Người Mẹ
hoa_hong (3)

NGƯỜI MẸ
David Farewell
Quảng Tịnh Kim Phương dịch


Lập gia đình được hai mươi mốt năm, tôi mới phát hiện ra phương cách để giữ cho tình cảm vợ chồng luôn được mặn nồng.
Gần đây tôi bắt đầu hẹn hò với một phụ nữ.
Thật ra đó là ý của vợ tôi. Một ngày nọ cô ấy thốt lên khiến tôi rất ngạc nhiên: “Anh biết là anh thương bà ta lắm mà. Cuộc đời thật là ngắn ngủi. Anh cần dành thời gian cho những người anh thương yêu.”
“Nhưng anh cũng yêu em mà,” Tôi chống chế:“Em biết, nhưng mà anh cũng yêu bà ta nữa. Có lẽ anh sẽ không tin em, nhưng em nghĩ rằng nếu cả hai người dành cho nhau nhiều thời gian hơn, thì anh và em sẽ gắn bó với nhau hơn.”
Lúc nào Peggy cũng đúng.
Người phụ nữ mà vợ tôi khuyến khích tôi hẹn gặp chính là Mẹ tôi.
Mẹ tôi là một góa phụ đã bảy mươi mốt tuổi, người đã sống một mình kể từ khi Ba tôi mất cách đây mười chín năm. Sau khi Ba tôi qua đời, tôi đã di chuyển 2500 dặm để đến California, nơi tôi bắt đầu xây dựng mái ấm gia đình và lập nghiệp ở đây. Khi tôi quay về lại quê nhà cách đây năm năm, tôi tự hứa với chính mình sẽ dành nhiều thời gian cho Mẹ. Nhưng vì bận rộn công việc và ba đứa con, tôi đã không có thời gian nhiều để thăm Mẹ ngoài những dịp nghỉ lễ hay gặp mặt gia đình.
Mẹ rất là ngạc nhiên và ngờ ngợ khi tôi gọi điện thoại mời Bà đi ăn tối và xem phim. Bà ta hỏi tôi: “Có chuyện gì không con? Con lại sắp đưa các cháu của Mẹ đi đâu sao?” Mẹ tôi là mẫu người hay suy nghĩ tiêu cực - một cú phôn vào nửa đêm hay lời mời đi ăn tối bất ngờ từ đứa con trai trưởng – là báo hiệu điềm không lành.
Tôi trả lời: “Con nghĩ là dành thời gian ở với Mẹ thật là thú vị lắm, chỉ có hai Mẹ con ta thôi.”
Mẹ suy nghĩ về điều đó trong giây lát.
Mẹ tiếp lời: “Mẹ thích lắm, Mẹ thích lắm con à.”
Tôi cảm thấy bồn chồn khi lái xe tới nhà rước Mẹ sau giờ tan sở làm vào ngày Thứ Sáu. Tôi cảm thấy lo lắng cho buổi hẹn - tất cả không có gì khác hơn việc đi ra ngoài ăn tối với Mẹ.
Chúng tôi sẽ nói gì đây? Lỡ như Mẹ không thích nhà hàng mà tôi đã đặt hay bộ phim mà tôi đã chọn?
Nếu như Mẹ không thích cả hai?
Khi tôi lái xe vào nhà Mẹ, tôi cảm thấy Mẹ rất náo nức với buổi hẹn này. Mẹ đang đứng chờ ở cửa và mặc sẵn áo khoác. Mẹ chải tóc quăn. Mẹ đang đứng mỉm cười. Vừa bước vào xe, Mẹ vừa nói: “Mẹ kể với mấy người bạn là Mẹ sẽ đi ra ngoài ăn tối với con khiến họ rất là ngưỡng mộ. Ai cũng bồn chồn không muốn chờ đến ngày mai để nghe kể về buổi hẹn của Mẹ con mình tối nay cả.”
Mẹ con tôi cũng không có đi chỗ sang trọng lắm, chỉ một nơi gần nhà để chúng tôi có thể hàn huyên. Khi đến nơi, Mẹ nắm chặt tay tôi - nửa âu yếm nửa giúp mẹ bước lên bậc thang vào phòng ăn.
Khi chúng tôi ngồi vào bàn, tôi đọc thực đơn cho Mẹ nghe. Mắt Mẹ chỉ có thể đọc được những hình vẽ và chữ lớn. Khi đọc đến nửa thực đơn món ăn khai vị, tôi ngước lên. Mẹ ngồi đối diện, đưa mắt nhìn tôi. Nụ cười sung sướng thoáng hiện trên môi.
“Hồi còn nhỏ Mẹ cũng thường đọc thực đơn,” Mẹ nói.
Tôi hiểu ngay khi nghe Mẹ nói điều này. Từ việc Mẹ chăm sóc tôi và rồi tôi chăm sóc Mẹ, mối quan hệ chăm sóc cho nhau giữa Mẹ con tôi cứ xoay vần.
“Đã đến lúc Mẹ cần được nghỉ ngơi, để con lo lắng và chăm sóc cho Mẹ nhé,” Tôi nói.
Suốt buổi ăn tối Mẹ con tôi nói chuyện vui vẻ. Không có chuyện gì là to tát cả chỉ là hỏi thăm về cuộc sống của nhau. Chúng tôi mãi mê chuyện trò đến trễ giờ cho buổi xem phim. Mẹ tôi cất tiếng khi tôi lái xe đưa Bà về nhà: “Mẹ sẽ hẹn con một lần khác, nhưng lần tới thì để Mẹ trả tiền nhé”. Và tôi đồng ý.
“Hôm nay đi chơi có vui không?” Vợ tôi hỏi liền khi tôi vừa về đến nhà tối hôm đó.
“Thật là tuyệt, tuyệt hơn là anh nghĩ nữa.” Tôi đáp lại.
Cô ta mỉm cười và tôi cũng cười theo.
Kể từ đêm hôm đó tôi và Mẹ thường xuyên gặp nhau hơn. Chúng tôi không đi ra ngoài ăn mỗi tuần nhưng chúng tôi hẹn gặp nhau ít nhất vài lần mỗi tháng. Chúng tôi đi ăn tối và thỉnh thoảng đi xem phim với nhau. Phần lớn thời gian chúng tôi nói chuyện với nhau. Tôi kể cho Mẹ nghe về công việc của tôi ở chỗ làm, rồi thì khoe vợ con mình với Mẹ. Còn Mẹ thì huyên thuyên nói về chuyện gia đình cho tôi nghe không biết chán.
Mẹ cũng kể cho tôi nghe về quá khứ của Bà. Bây giờ thì tôi mới biết được Mẹ đã làm việc như thế nào trong một công xưởng hồi Thế Chiến Thứ Hai. Tôi biết được Ba và Mẹ đã quen nhau ở đó như thế nào, và họ đã nuôi dưỡng tình yêu của mình trong giai đoạn khó khăn ra sao. Khi nghe Mẹ kể chuyện, tôi mới cảm nhận được Ba Mẹ quan trọng đối với tôi như thế nào. Ba Mẹ là chứng tích lịch sử của tôi. Tôi không thể nào biết hết được.
Mẹ con tôi không chỉ nói chuyện về quá khứ mà cả luôn về tương lai. Vì Mẹ có bệnh nên bà rất lo lắng cho những ngày sắp tới. Một tối nọ, Mẹ bảo tôi: “Mẹ còn nhiều thứ cần phải làm lắm. Mẹ cần gần gũi với cháu chắt khi chúng đang trưởng thành. Mẹ không muốn mình bỏ lỡ bất cứ điều gì.”
Giống như nhiều người bạn cùng trang lứa, tôi có khuynh hướng sống vội vả, vật lộn với thời khóa biểu để vừa đi làm vừa có thời gian cho gia đình và xã giao chung quanh. Tôi thường than thời gian sao trôi qua nhanh quá. Những giây phút bên Mẹ đã dạy cho tôi tầm quan trọng của việc sống chậm lại. Cuối cùng tôi mới hiểu thế nào cái cụm từ mà tôi đã nghe cả triệu lần: thời gian quý báu.
Peggy đã nói đúng. Hẹn hò với Mẹ đã giúp cho cuộc hôn nhân của chúng tôi. Điều đó đã giúp tôi làm một người chồng, một người cha tốt và hy vọng là một người con hiếu thảo hơn.
Cám ơn Mẹ. Con yêu Mẹ lắm.

Theo: “The Other Woman”, David Farewell. Chicken Soup for the Woman’s Soul, 1996, Jack Canfield, Mark Victor Hansen, Jennifer Read Hawthorne and Marci Shimoff, Health Communications, Florida, USA.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4937)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5087)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4435)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4106)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4696)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4158)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3603)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6882)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5054)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]