Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hạnh Phúc Người Giữ Gìn Năm Giới

25/07/201308:53(Xem: 9215)
Hạnh Phúc Người Giữ Gìn Năm Giới

thanhdao


Hạnh Phúc Người Giữ Gìn Năm Giới

Thích Nữ Giác Anh


Vươn đến một đời sống thành công và hạnh phúc là niềm mơ ước muôn thưở và rất chánh đáng của mỗi con người. Làm người ai cũng mong một đời sống vui vẻ và hạnh phúc.

Hạnh phúc không đo bằng vật chất, dù vật chất là một phần tạo nên sự yên tâm cho con người. Hạnh phúc không đo bằng danh vị, dù địa vị và danh thơm một phần nào cũng góp nên cảm giác chắc chắn và thoải mái. Hạnh phúc không đo bằng sức khoẻ hay sắc đẹp, dù rằng không có sức khỏe hay thiếu phần ngoại hình cũng khó mang lại một đời sống hạnh phúc trong thế giới vốn rất trọng bề ngoài này. Hạnh phúc không phải chỉ có những mối quan hệ tốt đẹp với người thân xung quanh, vì dù đã có người thân, người thương nhưng vẫn cần những phương tiện cần thiết để sống và để tiếp tục thương. Hạnh phúc càng không phải là những thành công trong đời sống vì thành công mà không có mãn nguyện cũng đồng nghĩa với thất bại (success without fulfillment is failure).

Như vậy, hạnh phúc đời thường phải chăng là do tất cả những yếu tố đó ghép lại? Nếu phải như vậy, thì giữa cuộc đời này mấy ai dám mơ một đời sống hạnh phúc? Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới. Vì thế, dù những tiêu chuẩn làm nên hạnh phúc có vẻ khó khăn như kể trên, nhưng trên thế giới này vẫn có những cuộc đời rất hạnh phúc. Chắc chắn những con người hạnh phúc đó biết sống cuộc đời dựa trên đạo đức căn bản của năm giới. Năm giới đó, người Phật tử ai ai cũng biết: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không dùng những chất gây mê mờ.

Qui y Tam Bảo và lãnh thọ năm giới là cửa ngõ cho những ai muốn bước vào thế giới tuyệt diệu của Phật giáo. Tuy vậy, bất cứ cá nhân nào dù chưa qui y Tam Bảo mà đã giữ gìn theo năm giới, cũng đảm bảo có một đời sống hạnh phúc giữa thế gian đầy đau khổ này. Điều đó rất chắc chắn. Quả thật, năm giới là nền tảng, là điều tất yếu để xây dựng một xã hội an định, một đất nước giàu mạnh và an ninh, dân chúng nơi đó thật sự hưởng an lạc và thái bình.

Giới đầu tiên, không sát sanh. Diễn đạt theo cách khác của không sát sanh là đời sống biết trân trọng và thương yêu chính bản thân và muôn loài. Ta không thể thương người nếu ta không biết thương ta. Vì không biết thương ta nên ta mới hại ta. Vì hại ta nên xã hội ngày nay mới có tỉ lệ quyên sinh cao nhất trong mọi thời đại. Và cũng chính không biết thương ta nên ta mới hại người, vì chính hại người là cái nhân cho người hại lại ta. Một cái vòng nực cười, lẫn quẫn, vô lý… nhưng mấy ai thật sự hiểu để tránh được!

Đức Phật dạy giới thứ nhất không được sát sanh, đó là cách nói ngắn gọn cho dễ nhớ. Vì làm sao đi đến không sát sanh nếu đời sống không bắt nguồn từ sự trân trọng và thương yêu lẫn nhau. Giữa người và người, giữa người và muôn loài, mối quan hệ đó một khi đã mất đi sự trân trọng và thương yêu, thì chắc chắn phải dẫn đến sự xâm phạm và giết hại lẫn nhau.

Tình trạng bạo hành trong gia đình, con cái bất hiếu lớn tiếng với cha mẹ, vợ chồng cãi vã dẫn đến đánh đập lẫn nhau… tất cả những kết quả đó từ sự thiếu trân trọng và thương yêu bên kia. Có một gia đình nọ, mỗi khi gặp chuyện bất đồng dẫn đến cãi vả, dù cãi nhau họ cũng không lớn tiếng. Do vì thói quen tôn trọng, sợ làm tổn thương người kia đã đạt đến đỉnh cao trong từng tư cách và đã biến thành thói quen của mỗi người. Chuyện đó không phải là không có trong xã hội.

Nói rộng ra hơn nữa, một chính phủ biết trân trọng và thương yêu người dân, khi lâm vào hoàn cảnh cần có chiến tranh, họ cũng chọn thời điểm ít tốn nhân mạng của bên mình và của đối phương nhất, chứ không dễ dàng hy sinh tính mạng của binh lính và dân lành hai bên bao giờ. Huống chi trong thời bình, những chính phủ biết quí trọng thương yêu dân chúng, chắc chắn sẽ xây dựng xã hội dựa trên cơ sở nhân bản, tự do và đặt quyền lợi của người dân lên trên hết.

Nước Úc là hình ảnh điển hình của một xã hội hạnh phúc và an định. Người dân nơi đây sống vui hiền hòa, nhân vị luôn là tiêu chí đầu tiên. Chế độ an sinh xã hội cho người thiếu may mắn, bệnh đau, thương tật, yếu già… đứng đầu trên thế giới. Chính phủ Úc biết trân trọng và thương yêu người dân. Giữa người với người, đồng loại với nhau đều xây dựng mối quan hệ trên sự trân trọng, tôn kính và thương yêu như thế, thì chắc chắn xã hội ấy thái hòa và an lạc. Và đất nước Úc quả thật là như vậy so với các nước khác trên thế giới.

Duới cái nhìn của Phật Giáo, tình thương còn lan xa hơn. Đức Phật dạy rõ, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, có nghĩa là tất cả chúng sanh đều cần yêu thương và giúp đỡ như mình. Vì thế, hạnh nguyện ăn chay của người Phật tử bắt nguồn từ tình thương đối với chúng sanh muôn loài là như vậy. Bồ Tát đạo dựa trên Bồ Đề Tâm làm căn bản, Bồ Đề Tâm là thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, nghĩa là trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Chúng sanh không phân biệt người hay trời, thấy hay không thấy, địa ngục hay súc sanh, hóa độ chúng sanh là hóa độ tất cả. Làm sao hóa độ chúng sanh cho được nếu không có sự trân trọng và thương yêu chúng sanh. Thế nên, người Phật tử thọ Bồ Tát giới đều lấy việc trường chay làm pháp hành đầu tiên. Có nhiều Phật tử, tuy chưa thọ Bồ Tát giới nhưng vì lòng bi mẫn đối với chúng sanh, cũng phát nguyện trường chay. Những tấm gương đó thật tươi sáng!

Tuy nhiên, cũng không nên vì ăn chay, vì thương chúng sanh với ý tưởng cố chấp thái quá mà đánh mất hạnh phúc khi đối xử với những người thân bên mình. Cái tuyệt của Phật Pháp “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên” là ở chỗ đó. Tuỳ theo nhân duyên mà không đánh mất lòng từ bi, vẫn giữ được hạnh nguyện từ bi nhưng không làm gẫy đổ nhân duyên. Nhạy bén, dung hòa làm sao để có thể bày tỏ được tình thương, đem đến hạnh phúc cho mọi người và mọi loài, từ người gần đến người xa, từ người thân đến người lạ, không bỏ mất một ai, đó mới là cái hay của người giữ giới.

Sống với niềm trân trọng và tình thương rộng mở, cá nhân đó luôn cảm nghiệm một tâm hồn nhẹ nhàng và vui tươi. Người biết thương yêu sẽ tránh được nỗi lo lắng sợ hãi người khác trả thù mình.

Trên thế gian này, ai cũng muốn mọi người trân trọng và thương yêu mình. Nhưng không có một hạnh phúc nào, tình thương chân thật nào đến từ một chiều cả. Mình thương người thì người mới thương mình, mình biết quí trọng người thì người mới quí trọng mình.

Đối với loài khác, biết sống thương yêu, không sát hại luôn đem đến một cảm thọ an bình và yên ổn. Không sát hại chúng sanh sẽ không thọ quả báo đau đớn của giết hại. Sống vui, không sát sanh đem đến một thân thể khỏe mạnh, không ốm đau và bệnh tật. Sức khỏe tốt đẹp là điều rất cần cho hạnh phúc.

Bí quyết đầu tiên cho một đời sống hạnh phúc là như thế.

Giới thứ hai, không trộm cắp. Không trộm cắp nói cách khác là tôn trọng vật sở hữu của người khác. Ở các nước như Singapore, Malaysia… hình phạt của tội trộm cắp rất nghiêm và rất nặng, đặc biệt ít có trường hợp du di. Các cửa hàng ngoài đường, người ta có thể trưng bày mọi thứ quí giá, đắt tiền mà không lo lắng đến tệ nạn trộm cắp. Ở các quốc gia đó, nếu bị bắt vì tội trộm cắp, hình phạt có thể bị đánh đòn tại chỗ, hay chặt một ngón tay để làm gương. Nghe qua thật tàn nhẫn, nhưng quả thật, tệ nạn ăn cắp ở những nước đó rất ít xảy ra. Người dân không lo sợ chuyện bị ăn cắp dọc dường, mất đồ là có thể việc nhỏ, quan trọng hơn là cảm giác sợ sệt, bất an rất khó chịu!

Quả thật, trong gia đình nếu có một người bị tật ăn cắp thì gia đình đó chắc chắn thường hay xào xáo, khổ sở. Bản thân người có tật đó, không thể có phút giây yên vui được. Vì làm sao vui khi môi trường chung quanh không vui. Người mắc bệnh ăn cắp, lúc nào đầu óc tâm tư cũng lo toan, suy tính, làm thế này và làm thế kia… Xong việc ăn cắp rồi, cũng chưa yên ổn, phải lo lắng giấu giếm sợ người mất của nghi kỵ, không tha cho mình. Thật tội nghiệp cuộc đời của người phải đeo nghiệp ăn cắp.

Ngược lại, nếu luôn sống tôn trọng quyền sở hữu của người khác sẽ luôn đem đến một cảm thọ an ổn và nhẹ nhàng. Nhẹ nhàng vì không phải lo. An ổn vì ai cũng vui. Lại thêm gặp việc gì cũng thường được dễ dàng, trôi chảy. Sống tôn trọng sở hữu của người, được quả báo ít bị mất trộm, ít lo bị ăn cắp. Đi đâu, làm gì hay thậm chí có quên việc gì ở đâu, cũng có người lượm được đem trả lại. Ai kinh nghiệm qua rồi, mới thấy cảm giác đó thật tuyệt!

Có một câu chuyện, người thật việc thật. Chú kia là hướng dẫn viên du lịch, hôm đó dẫn đoàn đi Nhật. Làm tour guide thì lúc nào cũng phải có sẵn tiền mặt để đổi cho khách. Hôm đó chú ấy ôm gói tiền rất to, rất nặng, hơn 50,000 Úc kim, đến lúc cần phải đi toilet, chú ôm nguyên gói tiền vào toilet công cộng, khi xong việc, thân thể nhẹ nhàng đứng lên đi ra, bỏ gói tiền lại. Đến khi nhớ ra thì đã hơn nửa ngày rồi. Chú ấy tức tốc quay trở lại chỗ cũ, nhưng biết hỏi ai bây giờ. Chú chỉ biết thất vọng đến báo trạm cảnh sát gần đó nhất. Nhưng ngay lúc thất vọng nhất, ông cảnh sát đã xin xem giấy tờ passport để làm thủ tục hoàn lại gói tiền cho khổ chủ. Gói tiền được một người Nhật sau đó lượm được và đem đến gởi cho trạm cạnh sát. Chú tour guide nhận lại gói tiền trên tay, vừa mừng, vừa khâm phục tinh thần chân thật của người Nhật Bản. Chú tour guide đó là chú T. T, giám đốc công ty Triumph Tour ở Sydney này.

Tôn trọng vật sở hữu người khác là việc nghĩ xa và cấp thiết, tôn trọng ý tưởng hay công sức của người là việc gần hơn nhưng không thiếu phần quan trọng. Vì biết trân trọng ý tưởng hay công lao của người khác, đó là lối sống của một người có nhân cách cao, văn minh và anh dũng. Những người như vậy, sống cuộc đời thật thảnh thơi, bạn bè con cháu quay quần, vì người đó biết khuyến khích và công nhận tiềm năng của người khác. Giữa cuộc đời bon chen và tỵ hiềm, rất cần những tấm lòng rộng lớn đẹp đẽ như thế.

Một con người, một xã hội ai ai cũng gìn giữ giới thứ hai không trộm cắp này, thì con người đó, xã hội đó làm sao không ổn định và thăng bằng được. Chắc chắn hạnh phúc sẽ mỉm cười với người luôn trân quí sở hữu của mình và của người như thế.

Giới thứ ba, không tà dâm. Không tà dâm nói cách khác là sống đời trang nghiêm, thanh tịnh và chung thủy. Đối với người tu sĩ Phật Giáo, giới này là không dâm dục. Không dâm dục vì tất cả chúng sanh đều từng là cha mẹ mình. Không dâm dục vì dâm dục là cái nhân của sanh tử luân hồi. Trong vô lượng kiếp tái sinh, có khi làm thân nam, có khi làm thân nữ, có khi làm bạn, có khi là thù… Cái ái luyến dẫn đến đòi hỏi dâm dục thật ra không bắt nguồn từ cái thật thương yêu bền vững chân thật. Giới hạn của ý thức con người chỉ gói gọn trong một kiếp sống ngắn ngủi. Kiếp này thấy thương người này, nhưng có thể sẽ thương người khác vào kiếp sau. Nhưng mỗi lần thương, cứ hoang tưởng cái thương đó sẽ là duy nhất! Vì vậy, Phật dạy tất cả tu sĩ Phật Giáo nên thường xuyên quán tưởng Vô Thường, sợ phải theo nghiệp mà tái sanh nên phải nhớ rõ muốn đi trên đường chấm dứt sinh tử phải không dâm dục.

Hoàn cảnh ngày nay, dù xa cách Phật đã lâu, giữa đại dương bao la của sinh tử, rất khó tìm thấy những người gìn giữ được hạnh nguyện này. Nếu ai tìm được người đó, hãy cung kính trân trọng, vì người đó chính là ngọn đuốc soi sáng đêm dài tăm tối, là bài học quí giá trên con đường thực hành đạo giải thoát.

Tuy khó gặp, nhưng không phải là không có. Người viết được tận mắt, tận tai, tận tâm… chứng kiến một người. Người đó là vị ân nhân trên lộ trình tu đạo. Nhìn vị đó, người tu tự an ủi giữa thời mạt pháp này vẫn còn người tu, vẫn còn người hành những điều khó hành nhất. Đảnh lễ vị đó, người tu biết rằng nếu cố gắng mình cũng được dõi theo bước chân Ngài, được vẹn tròn đến ngày viên mãn.

Đối với người cư sĩ tại gia hay nói xa hơn, đối với người đang sống đời bình thường. Không tà dâm là điều quan trọng bắt buộc như giới không dâm dục của người tu sĩ. Hạnh phúc gia đình phần chính yếu dựa vào sự thủy chung của hai bên. Lỗi lầm nào cũng có thể tha thứ được, chứ một khi đã phạm vào lỗi này rồi, thì hạnh phúc gia đình thật vô cùng mong manh!

Thế gian không thiếu những con người sống đời thanh cao và chung thủy. Nhưng cũng có rất nhiều gia đình tan vỡ vì một trong hai người thiếu thủy chung. Một khi đã không còn tin cậy được nhau nữa thì dù con cái có thành đạt, sự nghiệp có giàu có, gia nhân có đông đủ… trong chốc lát cũng biến thành mây khói! Màn đêm đau khổ sẽ trùm lên cả gia đình. Từ đó, bệnh tật, tan gia bại sản cũng xảy đến. Tâm bệnh sẽ kéo theo thân bệnh là điều tất nhiên. Con cái trong gia đình, tự nhiên đang êm ấm bỗng dưng lạnh lẽo, tiêu điều. Vì cha mẹ thiếu vun bồi giới hạnh, mà cuộc đời của các con cũng thành những trẻ cô đơn từ đây. Thật tang thương biết bao!

Trong xã hội nếu có nhiều gia đình ly dị (divorce), thành phần trẻ em thiếu tình thương, thiếu giáo dục đạo đức cũng sẽ nhiều thêm. Lớp thiếu niên đó lớn lên thiếu tình thương, thiếu trách nhiệm sẽ sống ra sao… Khi đôi mắt các em trong gia đình đỗ vỡ nhìn các em được sống trong cảnh hạnh phúc mà khao khát, mà thương cảm… mà buồn rơi nước mắt !

Phật khuyên người Phật tử gìn giữ giới thứ ba này, cũng là lời khuyên cho toàn thể nhân loại. Trong số những người con thành đạt, phần lớn đều được nuôi dưỡng từ mái ấm thủy chung của cha mẹ. Cha mẹ đồng lòng thì chuyện gì cũng làm nên, khó khăn nào cũng có thể vượt qua. Các con chắc chắn sẽ nên người. Một mái ấm như thế tràn ngập tiếng cười và niềm thương yêu. Các trẻ lớn lên trong không khí ấy, phần lớn sẽ được trưởng thành như ý nguyện. Thêm một bí quyết nữa để sống đời hạnh phúc là gìn giữ giới thứ ba này vậy.

Giới thứ tư là không nói dối, nói theo cách khác là sống đời chân thật. Trên thế gian này, chỉ có Phật Đà viên mãn hạnh nguyện “chân thật ý, chân thật ngữ”. Vì cứu cánh giải thoát là đạt đến vô ngã, vì vô ngã nên không sợ hãi, không sợ hãi nên không cần phải dối.

Sống trong cuộc đời, ai ai cũng thích được gần người thành thật. Một tình bạn sỡ dĩ bền lâu mấy mươi năm không phai mờ là vì hai người thành thật với nhau. Sống bên cạnh người thành thật, luôn có cảm giác an ổn và thoải mái. Sống với người thành thật, không phải lo toan, suy nghĩ. Dù cho có đôi lúc gây cấn, bất đồng, nhưng do thành thật mọi việc cũng suông sẽ, nhẹ nhàng. Thậm chí qua đó tình thương càng gắn kết sâu đậm hơn.

Trong Phật đạo, thành thật là cái nhân của chứng đạo. Thành thật với mình là quan trọng nhất. Không thể tu đạo được nếu không có đức tánh thành thật. Giảng kinh thuyết pháp mà tánh đức không thành thật cũng không thể giảng lâu, giảng sâu và rộng rãi được. Âu đó cũng là nhân quả nghiệp báo vậy.

Đức Phật thường ví người không thành thật mà tu đạo, giống như đổ nước vào bát úp, Phật Pháp không thể nào thâm nhập thấm sâu vào tâm trí người không thành thật. Vì hạt giống trí tuệ giải thoát đã bị chủng tử giả dối ngăn chặn không thể sinh sôi, phát triển.

Nói dối việc tuy nhỏ, cũng tạo thành thói quen. Lâu dần chính thói quen đó tác hại ghê gớm đến đời sống của mình. Thế gian không chấp nhận người nói dối. Phật Pháp càng không chấp nhận.

Người luôn nói thật, sống thật thường chiêu cảm mọi người thương mến, dễ gần. Nói ra lời gì cũng dễ nghe. Diễn giảng Phật Pháp rộng sâu, thu hút. Nhân chủng chân thật chiêu cảm đọc tụng kinh điển sớm mau giác ngộ, tỉnh thức hơn người. Thế gian có câu, nồi nào úp vun nấy, người ngay sẽ gặp người ngay. Đi đâu cũng có thiện thần giúp đỡ. Nói nôm na là thế, nhưng xét kỹ cách nói ấy rất khoa học, vì nhân nào quả nấy là định luật của muôn đời, trường hợp nào cũng như thế không sai khác được. Giới thứ tư không nói dối là thêm một bí quyết nữa để sống đời hạnh phúc.

Giới thứ năm, không dùng chất làm mê mờ. Chất làm mê mờ có thể là rượu, bia, là thuốc hút, ma tuý…. Giới này trong kinh điển Phật dạy là giới phụ tùy. Phụ tùy là giới không bắt buộc, hoặc không chính thống là điều bắt buộc phải ngăn cấm. Tuy nhiên, nếu phạm giới này thì khó tránh gìn giữ các giới trên.

Người ta thường hay nói “rượu vào thì lời ra”, những lời tuôn ra trong cơn say thường là không chánh ngữ. Hoặc người ta thường nói “tửu sắc”, rượu thường đi chung với sắc, trong lúc mê mờ thì rất khó giữ giới không tà dâm. Say sưa, mê mờ khiến cho người dễ rơi vào trạng thái thiếu cẩn trọng, mất tư cách. Thế gian thường hay nói “đốt thuốc là đốt tiền”, nguồn lực tài chánh thay vì nuôi dưỡng hạnh phúc gia đình, sẽ biến thành những cơn say đốt cháy bản thân và những người yêu quí xung quanh.

Trong xã hội, biết bao cảnh những con người thành công, sự nghiệp cao trọng lại vướng vào cạm bẫy sa lầy của nghiện ngập ma túy. Danh vọng đang lên cao phải đứt đoạn. Cuộc đời đang như mơ phải sa cơ thất thế, vì bệnh hoạn do tiếp thu những chất làm hư người này.

Các bậc thánh trong thế gian, không ai không sáng suốt, không làm chủ tâm thức của mình. Đức Phật khuyên người Phật tử đã qui y Tam Bảo, đã bước trên con đường giải thoát, nên xa lìa những nguồn cội làm mê mờ đời sống tâm linh như thế. Giới thứ năm này là chất liệu cuối để xây dựng nên một đời sống an lành, mạnh khoẻ và hạnh phúc.

Năm giới là căn bản của người Phật tử. Năm giới là nền tảng của một xã hội. Năm giới là rào phòng thủ vững chắc xây dựng một quốc gia. Ai cũng mơ ước vươn lên một đời sống hạnh phúc, và ai cũng có khả năng gìn giữ năm giới. Đối với người Phật tử của Phật giáo Nam Truyền, mỗi đêm ít nhất họ hành trì bằng cách đọc lại ba pháp Qui Y, Quy Y Phật, qui y Pháp và qui Y Tăng. Và quan trọng hơn họ đều tụng lại năm giới. Năm giới là cuộc đời của người Phật tử, là cuộc sống của người Phật tử.

Năm giới quan trọng như hơi thở, như bữa cơm chính trong ngày. Năm giới không phải là điều bắt buộc mà là niềm vui, là nguồn sống, là hạnh phúc của mỗi cá nhân. Một khi gìn giữ năm giới đã ăn sâu vào tiềm thức, biến thành thói quen cư xử trong đời sống, thì chắc rằng đời sống của người đó sẽ rất an vui và hạnh phúc.

Ai ai cũng vươn đến một đời sống hạnh phúc và ai ai cũng có thể gìn giữ thọ trì năm giới như lời Phật dạy và thế giới này sẽ trở thành một thế giới thật sự an bình và hòa ái.

Một mùa Phật đản nữa lại về, chúc nguyện tất cả chúng sanh đều an lạc và hạnh phúc trong ánh quang minh của đạo pháp.

Chùa Pháp Bảo, thành phố Sydney,Úc Đại Lợi

Thích Nữ Giác Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4551)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7383)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4784)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4899)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5342)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10314)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9136)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6435)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8839)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5010)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]