Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Đừng Mơ Tưởng... (Hay: Kinh Người Biết Sống Một Mình)

17/11/201209:19(Xem: 8942)
08. Đừng Mơ Tưởng... (Hay: Kinh Người Biết Sống Một Mình)

Đừng Mơ Tưởng
...

(Hay: Kinh Người Biết Sống Một Mình)
Nguyên Thảo

Tôi không hiểu vì sao, hoặc là do nghiệp chướng nào từ kiếp xa xưa, khi tôi bắt đầu lớn lên, tôi không thấy mình an tâm, trước mắt mình như có một màn gì mờ mờ ảo ảo. Tôi làm việc gì thường hay bỏ dở vào giai đoạn sau cùng và lúc nào cũng mang tâm trạng chán nản, mông lung..!

Con người tôi không thực mà cũng chẳng hư. Từ đó ý tưởng, cách sống của tôi nó như là hư hư thực thực, Có người bạn cay cú đùa tôi “sống không ra sống, chết không ra chết”. Chính từ điều ấy, lúc nằm trên giường bệnh tôi cố gắng bỏ đi mọi phiền não, và định lại tâm mình, tôi mới hiểu cái tâm lý của người tu thiền của một vài phái thiền: Ai cũng mong muốn, cầu được nhanh chóng giải thoát khỏi cảnh khổ đau, luân hồi, trầm luân của thế gian. Nhưng đâu phải một ngày, một buổi! Để rồi mình “mê” ngồi thiền bỏ con cái “bơ vơ” hay bê trễ công ăn việc làm mà cầu mong cho chính mình giải thoát.

Trong thế gian này người thật thì ít, người giả thì nhiều, đây là một thế giới lẫn lộn người và ma, là một trường thi mà con người cần tiến tu để trở về với chân tâm giác ngộ giống như Hòa Thượng Thích Tâm Thanh (Đại Ninh- Lâm Đồng) đã giảng trong cuồn băng ghi âm “Tương quan giữa sự sống và chết”: Trong thế giới của ta có bốn châu ở chung quanh núi Tu Di: Bắc Câu Lư Châu, Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hoá Châu và cõi Nam Diêm Phù Đề (là cõi mà chúng ta đang ở). Người ở Bắc Câu Lư Châu, Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu rất là thông minh, họ giàu sang sung sướng; Nhưng nếu họ muốn thành Phật thì họ cũng phải tái sanh về cõi Nam Diêm Phù Đề của chúng ta, vì chỉ ở cõi Nam Diêm Phù Đề mới có Phật Pháp. Cho nên muốn được thân người ở cõi Nam Diêm Phù Đề đã là khó rồi (thân người khó được) mà làm người tu hành lại càng khó hơn. Từ ý ấy, tôi đã để ý lại chuyện con mối cánh từ tổ bay ra, để rồi rụng cánh cắn đít dẫn nhau về tổ để được làm mối chúa; giống như con người rời cõi Thanh Tịnh, Chân không Diệu hữu để hiện thân làm người, chịu khổ đau, tu hành được trở về “nơi chốn cũ” mà thành bậc Giác Ngộ, thành Phật. Nhưng trong Kinh Viên Giác, Đức Phật lại ví dụ rõ hơn: Tâm thức ta từ trong cõi thanh tịnh, trong sáng, vì vọng tưởng khởi lên, vì u minh che lấp sự sáng suốt nên ta muốn có thân, rồi từ thân có giác quan (lục căn), tiếp xúc với sáu trần, có sáu thức, rồi sanh ra Dục Ái nên mới bị triền miên luân hồi; giống như quặng của vàng, chưa tập hợp, còn rời rạc trộn lẫn với đất đá, tạp chất. Khi tu hành giống như quặng được tôi luyện và khi quặng vàng đã trở thành vàng ròng là lúc chúng ta trở thành Phật. Lúc ấy vàng sẽ không bao giờ là quặng nữa. Qua ví dụ ấy cho ta thấy sự “vô minh” là sự “tất có”, để quặng trở thành vàng. Và chúng sanh lặn hụp trong luân hồi là điều “hiển nhiên”. Ai cũng phải vào biển khổ, ai cũng phải lội xa bờ, nhưng xa nhiều xa ít, chìm đắm nhiều chìm đắm ít tùy theo sự “thích chơi” hay “căn cơ” của mọi người. Giống như một trò chơi: Con người ai cũng từ nơi ấy, đi qua các giai đoạn như nhau, để rồi trở về nơi chốn cũ với một tính cách trưởng thành hẳn lên. Chỉ khác nhau là nếu tôi thích chơi trong biển khổ thì tôi sẽ ở lâu hơn, lội xa hơn, đường về sẽ gian nan hơn; còn bạn chán sớm thì bạn lên bờ sớm, bạn trở thành Phật trước tôi. Chỉ có vậy thôi! Nhưng bao giờ ý nguyện, nguyện lực của mình cũng vẫn là quan trọng. Lúc xưa khi đi làm chung với bạn bè, có anh bạn bảo rằng “mình muốn cái gì thì sẽ có cái nấy, mình muốn xe thì mình ráng làm, để dành tiền thì có xe; muốn nhà thì có nhà; muốn đi chơi thì sẽ đi chơi; muốn có vợ bé thì có vợ bé”. Đúng là như vậy, ý muốn của mình là quyết định tất cả. Mình muốn thiện thì mình sẽ làm các việc thiện, giúp ích cho đời, cho xã hội, cho người. Mình muốn làm việc ác thì mình sẽ tạo ác, gây rối cho xã hội, cho người, cho mình. Và trong cuộc luân hồi mình muốn thoát ra khỏi thì mình sẽ “dứt khoát” phải tìm đường ra, nguyện lực tu hành sẽ dũng mãnh và mình sẽ là một “Bất Thối Bồ Tát” không sai. Nếu mình còn muốn chơi tiếp tục mà người khác cứ mãi đến lằng nhằng khuyên răn, mình sẽ “chán ngấy” và đôi khi mình sẽ lôi họ để bắt họ chơi cùng với mình cho “bỏ ghét”. Mới đây, khi vào chùa Pháp Hoa, tình cờ tôi thấy được “Kinh Người Biết Sống Một Mình” do Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch. Tôi cũng muốn tìm hiểu cùng bạn để chúng ta có thể hiểu xa hơn được chút nào không trên con đường tu tập và nếp sống của mình:

Đừng tìm về quá khứ 
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới

“Này Quý Thầy, sao gọi là tìm về quá khứ? Khi một người nghĩ rằng: Trong quá khứ hình thể ta từng như thế, cảm thọ ta từng như thế, tư tưởng ta từng như thế, hành nghiệp ta từng như thế, nhận thức ta từng như thế. Nghĩ như thế và khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy, thì người ấy đang Tìm về quá khứ”. “Này Quý Thầy, sao gọi là không tìm về quá khứ? Khi một người nghĩ rằng: Trong quá khứ hình thể ta từng như thế, cảm thọ ta từng như thế, tư tưởng ta từng như thế, hành nghiệp ta từng như thế, nhận thức ta từng như thế, Nghĩ như thế và không khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy thì người ấy đang Không tìm về quá khứ”.

Có một lần tôi đã kể lại cùng bạn một sự tất nhiên của ký ức về quá khứ. Ai, dù ít dù nhiều, khi về già đều có sự ôn lại cái quá khứ mà mình đã trải qua: Có quá khứ oanh liệt, có quá khứ thảm sầu, có quá khứ đẹp như mơ, mà cũng có quá khứ khốn cùng, mỗi người mỗi nét, mỗi người mỗi vẻ. Nhưng chung quy, quá khứ bao giờ cũng là “kỷ niệm dấu yêu” dù nó có đầy thương đau đi nữa, là “cái gì” được ta trân trọng gìn giữ nó.

Nhiều lúc trong các câu chuyện “Trà dư tửu hậu” ai cũng đều có kỷ niệm thật đẹp về tình yêu trai gái, của thời ấu thơ phá phách, của thời kỷ niệm làng quê hoặc thời vàng son lưu luyến. Người kể rất là say sưa như muốn chìm đắm trở lại trong các kỷ niệm ấy, và đôi lúc họ muốn, họ có nguyện lực trở lại nơi ấy, hoặc sẽ gặp người ấy nếu có kiếp “lai sinh”. Ấy là tự mình ràng buộc mình, thúc đẩy tâm thức mình một hứa hẹn kiếp sau. Điều mình mong muốn, quyết muốn thì mình sẽ được. Thế là ta lại “được” một kiếp nữa trong cõi luân hồi. Đấy là điều mà Đức Phật nói “Nghĩ như thế và khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy, thì người ấy đang tìm về quá khứ”.

Và nếu ta ngồi ôn lại cuộc đời đã qua để tách ra điều thiện, điều ác, tốt xấu, đúng hay sai rồi mình tự ăn năn, sám hối, tu tịnh hầu giải bớt “nhân kiếp sau” và hành trang “cận tử nghiệp” còn ít lại chừng nào thì đường về xứ Phật ta sẽ nhẹ nhàng và nhanh chóng chừng nấy. Vì vậy mà “Nghĩ như thế và không khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy, thì người ấy đang Không tìm về quá khứ”.

Còn về tương lai thì sao?

“Này Quý Thầy, sao gọi là tưởng tới tương lai? Khi một người nghĩ rằng: Trong tương lai hình thể ta sẽ được như thế kia, cảm thọ ta sẽ được như thế kia, tư tưởng ta sẽ được như thế kia, hành nghiệp sẽ được như thế kia, nhận thức ta sẽ được như thế kia. Nghĩ như thế và khởi tâm ràng buộc và mơ tưởng về những gì thuộc tương lai ấy, thì người ấy Đang tưởng tới tương lai”.

“Này Quý Thầy, sao gọi là Không tưởng tới tương lai? Khi một người nghĩ rằng: Trong tương lai hình thể ta sẽ được như thế kia, cảm thọ ta sẽ được như thế kia, tư tưởng ta sẽ được như thế kia, hành nghiệp sẽ được như thế kia, nhận thức ta sẽ được như thế kia. Nghĩ như thế mà Không khởi tâm ràng buộc và mơ tưởng những gì thuộc về tương lai ấy, thì người ấy đang Không tưởng tới tương lai”.

Mình không bằng lòng với cuộc đời hiện tại này của mình hoặc mình không ưng ý với những điều kiện mà mình đã nhận lãnh, đã có từ trước đến nay, để rồi ta mơ ước, nếu có một kiếp sau, một kiếp lai sinh mình sẽ là như thế này thế khác. Đấy là một “ý nguyện cứng chắc”, nó sẽ được thành tựu và rồi ta lại đưa ta vào một kiếp nữa trong vòng luân hồi triền miên. Đó không phải là điều của người Trí trong Đạo Phật, mà chỉ là một sự u mê để kéo dài cuộc luân hồi của mình thêm ra. Do vậy sự đoạn quá khứ, và đoạn tương lai là một điều cần thiết để chúng sinh nhanh chóng thoát khỏi cảnh luân hồi. Cũng cùng ý nghĩ ấy tôi đã viết: “Còn việc trong khi “miễn cưỡng” diễn trò mà tâm hồn chán nản, thì vừa “diễn trả nợ” lại vừa thối lui.. tìm con đường tu để không gây nhân nữa mà chỉ lo trả nợ cũ thôi. Khi hết nợ, ta sẽ ung dung tự tại, đứng ngoài lề cuộc chơi, rời khỏi dòng nước lôi cuốn của luân hồi”.

Vả lại, với một tinh thần thoải mái hơn ta tự hỏi ta quyến luyến quá khứ để làm gì? Ta có quyền nhớ lại, kể lại như là một kỷ niệm vui chơi, chứ luyến nhớ để làm gì? Ta nhớ lại người yêu xưa để chi? Ta dù nhớ thương cách mấy, thì cũng không thể xoay thời gian trở lại được. Thôi thì việc gì qua cứ để nó qua luôn, đừng lấy nó để bận lòng, còn trăm ngàn việc khác phải lo.

Và với tương lai ta chưa biết ra sao? Dù mơ ước thế nào đi nữa thì nó cũng chưa tới mà nếu nó tới mà không đúng với điều ta mơ ước, như vậy càng làm cho ta khổ hơn. Vậy thì nghĩ đến tương lai để làm gì?

Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại 

“Này Quý Thầy, Thế nào gọi là bị lôi cuốn theo hiện tại? Khi một người không học, không biết gì về Phật, Pháp, Tăng, không biết gì về các bậc hiền nhân và giáo pháp của họ, không tu tập theo giáo pháp của các bậc hiền nhân, cho rằng hình thể nầy là mình, mình là hình thể nầy, cảm thọ này là mình, mình là cảm thọ này, tư tưởng này là mình, mình là tư tuởng này, hành nghiệp này là mình, mình là hành nghiệp này, nhận thức này là mình, mình là nhận thức này thì khi ấy người đó Đang bị lôi kéo theo hiện tại”.

“Và này Quý Thầy, thế nào gọi là không bị lôi cuốn theo hiện tại? Khi một người có học, có biết về Phật, Pháp, Tăng, có biết về các bậc hiền nhân và giáo pháp của họ, có tu tập theo giáo pháp của các bậc hiền nhân, không cho rằng hình thể này là mình, mình là hình thể này, cảm thọ này là mình, mình là cảm thọ này, tư tưởng này là mình, mình là tư tưởng này, hành nghiệp này là mình, mình là hành nghiệp này, nhận thức này là mình, mình là nhận thức này thì khi ấy người đó đang không bị lôi kéo theo hiện tại.

“Đó tôi đã chỉ cho Quý Thầy biết đại cương và giải thích cho Quý Thầy nghe về Thế nào là người biết sống một mình”.

Quả thực, con người bị lôi cuốn, lôi cuốn quá nhiều trong cuộc sống. Đối với các quốc gia Đông phương mức độ bị lôi cuốn hãy còn chậm chạp hơn. Xã hội văn minh, tiến bộ vật chất chừng nào thì dòng chảy càng mạnh chừng nấy: Vì ta phải ráng lo làm để đáp ứng vào mọi chi phí do các tiện nghi cung cấp trong xã hội. Ta cứ mải chạy theo thời gian và tiền bạc, đôi lúc ta cảm thấy rằng ta đã quên đi bản thân mình.

Nếu đứng về phương diện tinh thần ta đã bị lôi cuốn vào cuồng lưu luân hồi, lúc nào ta cũng đều có “các căn” nhìn vào “các trần” để ta cảm nhận được qua “các thức” rồi sanh ra Tham Dục Ái. Có tham có dục thì ta phải làm kiếm tiền, hay tìm đủ mọi cách để tạo hoặc chiếm hữu cho được, rồi thích hay không thích mà sanh tâm phiền não hay tiếp tục kiếm thêm.

Và ở đây Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy: Đối với người không biết Đạo, không hiểu về giáo pháp, họ cứ mãi cho rằng thân thể này là họ, mà họ chính là thân thể này, cũng cùng ý như vậy họ sẽ nhận cảm “thọ”, tư “tưởng”, “hành” nghiệp, nhận “thức” chính là họ hay họ được thể hiện qua các hình thức đó.

Còn đối với những người có học, có biết về Phật, Pháp, Tăng, có tu tập thì họ hiểu được thân mình là giả tạm, thân tứ đại vô thường, họ cần có thân xác chỉ là để trưởng dưỡng cái “huệ mạng” mà thôi, thì họ không cần thiết phải ăn ngon, mặc đẹp, không phải tranh giành hay dùng mọi cách, mọi thủ đoạn để chiếm hữu cái ngon nhất, tốt nhất, êm nhất, ấm nhất cung phụng cho cái thân xác hoặc chính vì muốn nuôi thân xác mà họ lại đày đọa thân xác: Phải làm thật nhiều, phải làm thêm giờ (overtime), phải tranh thủ thời gian để kiếm được nhiều tiền, có để mua thức ăn ngon, quần áo đắt tiền... cung phụng cho thân xác và cuộc sống. Từ nơi hiểu được thân là vật không tồn tại vĩnh viễn, mà cái Tâm, “cái Biết” của mình mới thật sự là mình, cho nên xúc, thọ, tưởng, hành, thức được sinh ra từ thân giả tạm thì chúng cũng là giả tạm, thân không còn thì chúng cũng sẽ không còn.

Từ đó, ta mới an trụ lại thân tâm, đứng yên lại mà nhìn dòng đời trôi qua, nhìn mọi việc xảy ra giống như một màn kịch; hoặc là ta ngồi xuống, lắng lòng lại, suy nghĩ và quyết định tu hành, để ăn năn sám hối, để chuộc lại những sai lầm trước kia, và nhìn lại những việc Thiện, việc tốt đã làm mà lòng thanh thản hơn thêm,.. Cho nên Đức Phật mới nói tiếp:

“Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Phải tinh tiến hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bắt ngờ
Không thể nào mặc cả
Người nào biết an trú
Đêm ngày trong chánh niệm
Thì Mâu Ni gọi là
Người biết sống một mình”. 

Nguyên Thảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2015(Xem: 11752)
Tâm dục được xếp hạng trên tất các sắc tướng, gọi là Sắc Dục, mà mê đắm sắc đẹp đưa đến dâm dục là điều cốt yếu của mọi vấn đề trên cõi Ta Bà. Tham dâm dục thôi thúc trong lòng khiến con người phải hành động để được thoả mãn ham muốn. Khi cái luồng chân khí ái dục này dâng lên thì si ái tình, khi đi xuống thì tham nhục dục. Mà ái có nghĩa là yêu thương thuộc tình cảm với cảm giác cao thượng. Dục là sự si mê, thèm khát thể xác. Khi dâng lên khi hạ xuống bất thường thì bị tẫu hỏa nhập ma, thất tình lục dục, đưa đến hành động phi luân, phạm pháp, vô đạo tai hại khôn lường cho mình cho người. Dục gồm có lục dục hay ngũ dục. Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần; mắt thích nhìn những sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh êm dịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm những vị ngon, thân thích đụng chạm êm ái, ý thích nghĩ tới tham si. Ngũ dục là năm thứ ham muốn của người đời không dễ gì loại bỏ. Kinh Phật nói về Ác Dục, Niệm Dục: Chư hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục th
20/09/2015(Xem: 8350)
Hôm nay là ngày rằm, từ sáng sớm bà chủ đã ngỏ lời: “Hây, tối nay kính mời khách thưởng trà ngắm trăng với chúng tôi trong vườn nhà”. Khi ráng chiều vừa tắt, bà chủ đưa cho khách bộ Yukata (Kymono mặc mùa hè), một đôi tất trắng, một đôi guốc xỏ ngón và một cái hoa vải màu hồng nâu. Thấy khách lúng túng, hiểu ý, bà chủ ân cần hướng dẫn khách sử dụng từng loại. Bà chủ chia sẻ: “Mặc Yukata khó nhất và đẹp nhất là cái đai quanh thắt lưng”. Miệng nói, tay làm, bà giúp khách hoàn thiện cái đai này. Bà lại hồn hậu: “Búi tóc kiểu Nhật cũng không là việc dễ”, rồi đôi tay bà chủ thoăn thoắt, chỉ mươi phút mái tóc của khách đã được búi cao lại còn giắt thêm cái hoa vải màu hồng nâu sau gáy. Khách nghĩ, mình đã tươm tất lắm rồi, thì nghe bà chủ nhắc khéo: “Mặc Yukata đôi chân phụ nữ phải được bọc trong đôi vớ trắng và bước đi với đôi guốc xỏ ngón”. Nghe lời, khách mang vớ, mang guốc rồi thử bước đi; xong, khách thầm nhủ “mang đôi guốc này mà không té là điều kỳ diệuJ”.
19/09/2015(Xem: 9310)
Đối với người Phật tử, dù ở bất cứ phương trời nào, không phải chỉ mùa Vu Lan mới là thời điểm để người con Phật thể hiện lòng báo đức tri ân. Ân Chư Phật, ân Thầy Tổ, ân cha mẹ giáo dường, ân đàn na thí thí, ân xã hội, ân chúng sanh …. mà ân kia, đức đó phải luôn phát nguyện bằng thiện tâm: “Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài” Theo tinh thần trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm thì muôn người, muôn loài đều thầm lặng vì nhau mà sinh diệt. Cái này vì cái kia mà hiện hữu, cái này ra đi để cái kia tồn tại. Như lá rụng mà thực chẳng diệt, vì lá lại thành đất nuôi cây. Như mây tụ lại mà thực chẳng tan, vì mây chỉ chuyển hóa thành mưa tươi mát, tắm đẫm cỏ nội hoa ngàn ….
18/09/2015(Xem: 8891)
Được sự đồng ý của tác giả, Cư sĩ Diệu Nhung, Cư sĩ Tâm Thành và các Cư sĩ khác hùn phước ấn tống và gửi tặng sách GIA TÀI CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC (Thực tập Kham nhẫn) phiên bản tiếng Việt cho các đối tượng sau đây: 1. Đọc giả người Việt đang sinh sống và làm việc trong khu vực VIỆT NAM và CHÂU Á. 2. Các tu sĩ Phật giáo người Việt không phân biệt tông phái. 3. Các cư sĩ người Việt đang nghiên cứu và thực tập Phật giá
13/09/2015(Xem: 7805)
Giáo dục là gì? Hiện nay khó mà định nghĩa dứt khoát; có rất nhiều định nghĩa khác nhau, ví dụ: Như trong cuốn "The Educator’s encyclopedia" của ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và M.M. Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ Phương Đông đến thái độ Phương Tây và trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: "Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người". (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản trẻ năm 1971).
12/09/2015(Xem: 7299)
Những ngôi Chùa nổi tiếng ở VN
12/09/2015(Xem: 16836)
Nếu có người nào đó bảo rằng: “Tại sao Thầy viết nhiều và không chịu nghỉ ngơi, hãy để dồn viết một tác phẩm có giá trị vẫn hay hơn là những bài tạp ghi như vậy“ thì tôi sẽ trả lời rằng: “Nếu viết được thì cứ viết, chứ chờ viết hay mới viết thì biết bao giờ mới viết được một bài. Có nhiều người chờ cả đời không viết, đến khi muốn viết thì không còn sức khỏe nữa“. Quả cuộc đời nầy nó có nhiều cái khó như thế, mà chúng ta thì không tự làm chủ thời gian cũng như sức khỏe của mình được. Do vậy tôi chủ trương rằng: “Cái gì làm được trong ngày hôm nay thì hãy nên làm, chứ chờ đến ngày mai thì nhiều khi ngày mai ấy không còn ở lại với mình nữa. Dầu ta có già, có sống lâu bao nhiêu năm trên thế gian nầy đi nữa, rồi một ngày nào đó chúng ta cũng phải ra đi, mà thời gian thì chẳng thương tiếc gì ta, dầu ta có cố níu kéo nó lại. Ngay cả những người thân trong gia đình, mình cứ ngỡ rằng họ luôn ở gần mình và họ thuộc về một phần của cuộc sống mình, nhưng điều ấy ta đã lầm. Cuối cùng rồi chẳng có
12/09/2015(Xem: 9260)
Phật Giáo Việt Nam và vấn đề bảo vệ mội trường
10/09/2015(Xem: 10467)
Mẹ tôi năm nay 83 tuổi, mẹ đã bị bệnh mất trí nhớ (dementia) trong vòng năm năm nay. Bốn năm trước đây, khi tôi gặp mẹ, cánh cửa của căn chung cư mẹ tôi ở đã mở toang, và mẹ tôi đã đi lang thang ra ngoài đường. Bệnh mất trí nhớ của mẹ tôi phát ra rất nhanh, nhanh đến nỗi mẹ đã không còn nhớ đến ai cả.
06/09/2015(Xem: 9356)
Các nhà sư thuyết giảng cho người thế tục là chuyện bình thường, thế nhưng nếu một nhà sư đứng ra thuyết giảng cho các nhà sư khác thì quả là một chuyện hiếm hoi khi gặp. Dưới đây là một bài nói chuyện của nhà sư Thanissaro Bhikkhu với các bạn đồng tu trong một ngôi chùa mà nhà sư này có ý gọi chung các ngôi chùa là "bệnh viện của Đức Phật". Bài nói chuyện được trích dẫn từ một tập sách mang tựa "Thiền định 1: Bốn mươi bài thuyết giảng Đạo Pháp" (Meditation 1: Forty Dhamma Talks, Access to Insight, 2003), gom góp các bài thuyết giảng của ông. Thanissaro Bhikkhu là một nhà sư người Mỹ tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật Giáo Theravada, một nhà sư thật đáng kính, uyên bác và tích cực, vô cùng xứng đáng để hàn huyên với các nhà sư và thuyết giảng cho tất cả chúng ta nghe.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]