Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Ý nghĩa của việc cúng hoa

18/09/201215:28(Xem: 9784)
1. Ý nghĩa của việc cúng hoa

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

V. Ý NGHĨA CỦA NHỮNG VẬT ĐƯỢC THỜ CÚNG

Phật giáo không phải là một Tôn giáo, mà là một nền giáo dục, giáo học thực tiễn, thiết thực nhất trong cuộc sống, nhằm mục đích giúp chúng sanh tu nhân học Phật, chuyển mê khai ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Chính vì thế, Phật giáo là một trường học, còn các danh hiệu Phật, Bồ-tát, cũng như những vật được thờ cúng như bông, trái cây, nước, nhang, đèn, v.v.. là các môn học trong trường. Nhằm tránh tình trạng cho rằng Phật giáo mê tín, dị đoan, chỉ biết van xin, cầu nguyện; cũng để giúp hàng Phật tử chúng ta hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu chân thật về nền giáo học của Phật giáo, người viết xin giải thích sơ lược về ý nghĩa của những vật được thờ cúng.

V.1. Ý nghĩa của việc cúng hoa

Cúng hoa trước tượng Phật tượng trưng cho việc tu nhân. Thế gian hay Phật pháp đều không rời nhân quả, đều dựa trên nền tảng của nhân quả. Đa số các loại hoa cùng có chung mục đích, đó là tỏa ra hương thơm. Thấy hoa, chúng ta nghĩ ngay đến việc phải tu nhân thiện, bằng những việc làm có ích cho mọi người, mọi loài. Có thế, tương lai chúng ta mới gặt hái quả tươi tốt. Trong cuộc sống hằng ngày, khi ứng xử, giao tiếp với mọi người, ta cần phải tỏa ra hương thơm của đức hạnh, phẩm chất, làm tấm gương sáng cho người noi theo.

binhbongcungPhat-thichhanhphu

Bình bông cúng Phật – ảnh minh họa

Tham, sân, si là nguồn gốc của sanh tử luân hồi. Chính vì chưa hiểu được Phật pháp, nên Phật tử thường đến chùa thắp nhang cầu chư Phật, Bồ-tát gia hộ cho việc làm ăn được phát tài, được mạnh khỏe. Nhưng mấy ai được như ý! Phải chăng Phật, Bồ-tát không linh, không gia hộ, không che chở cho mình và gia đình? Trong kinh Đại thừa, đức Phật dạy: “vạn pháp giai không, nhân quả bất không” (Tất cả pháp đều không chân thật, đều hư giả, chỉ có nhân quả là chân thật, đúng đắn). Nghĩa là, nhân quả của mỗi người thì tự mình thọ nhận, chứ chư Phật, Bồ-tát không thể giúp được. Thiện nhân có thiện quả, ác nhân có ác báo, gieo gió nhất định gặp bão, ai ăn đấy no, ai tu đấy chứng, v.v… Trong Phật pháp đại thừa, hoa tượng trưng cho Lục độ vạn hạnh của Bồ-tát, tức Bố thí – Trì giới – Nhẫn nhục – Tinh tấn – Thiền định – Bát nhã.

  • Thứ nhất là Bố thí: gồm:

a. Bố thí tài:

v Ngoại tài: chúng ta đem những tài sản như tiền bạc, những vật ngoài thân thể để giúp đỡ những người nghèo khó khổ, trong khả năng của mình có thể làm được.

v Nội tài: hiện nay trong xã hội có chương trình hiến máu nhân đạo, Phật tử có thể hiến máu của mình cho những người bệnh; hoặc đem sức khỏe, thể lực, tinh thần của mình để phục vụ nghĩa công (làm những việc từ thiện) như trông nom chăm sóc những người bệnh, già, neo đơn v.v… Phật dạy: bố thí nội tài công đức lớn hơn bố thí ngoại tài. Nhưng điều quan trọng là chúng ta làm với tâm từ bi, giúp đỡ, không mong cầu danh lợi, tiếng tăm, không cầu hồi báo, không mong sự biết ơn, không thấy mình thí, không thấy người nhận thí, không thấy vật để thí, thì công đức mới tròn đầy viên mãn. Đó gọi là Bố thí Ba-la-mật. Nếu Phật tử làm được hạnh bố thí như vậy thì kết quả sẽ được giàu sang, được nhiều người kính mến, yêu thương.

b.Bố thí pháp:

Là đem tiền bạc của mình dùng vào việc ấn tống kinh sách, tượng Phật, biếu tặng đến mọi người. Hoặc đem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy quý báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác, đó là dùng khẩu giáo. Hoặc y theo giới luật của Phật mà tu hành thành thật, làm khuôn mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh…, đó đều là pháp thí, gọi là thân giáo. Pháp thí có một giá trị rất lớn lao hơn cả tài thí, vì tài thí chỉ có thể giúp người khác lúc túng thiếu về phương diện vật chất trong một thời gian nhất định, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Nhưng pháp thí thì có thể giúp đỡ mọi người rất nhiều về phương diện tinh thần, không riêng gì đối với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, không phải chỉ có ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn, mà gieo nhân lành cho nhiều đời nhiều kiếp về sau.

c. Bố thí vô úy:

Vô úy là không sợ hãi. Đem sự bình an, niềm vui, hạnh phúc đến mọi loài, như an ủi, phóng sanh. Cổ đức khuyên dạy ăn chay là việc làm tốt nhất đem đến sự không sợ hãi đến với chúng sanh. Phật tử làm được ba việc bố thí trên, như Bố thí tài sẽ được giàu sang. Bố thí pháp được thông minh, trí tuệ. Bố thí vô úy được khỏe mạnh, sống lâu.

Bố thí còn được hiểu theo nghĩa rộng, là sự buông xả. Trên con đường tu tập, Phật tử muốn đạt giác ngộ, giải thoát khỏi lục đạo luân hồi, thì cách tốt nhất là buông xả năm món phiền não: tham lam, sân giận, ngu si, ngã mạn, nghi.

  • Thứ hai là Trì giới.

Trì: là cầm lấy, giữ gìn.

Giới: là răn dạy, phòng hộ.

Trì giới nghĩa là giữ gìn những điều răn dạy, ngăn cấm; gìn giữ những giới luật mà đức Phật đã chế ra để hướng dẫn các đệ tử của Ngài đi vào con đường chân chánh nhằm đạt đến quả vị giải thoát. Người Phật tử tại gia cần giữ gìn năm giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu). Đây là những điều căn bản của việc tu nhân học Phật. Nếu người chưa thọ giới thì giữ gìn những hiến chương, pháp luật của nhà nước đã qui định. Trong cuộc sống, chúng ta làm tròn nghĩa vụ của một người công dân, gương mẫu trong gia đình và xã hội, hoàn thiện bản thân, để đạt đến chân-thiện-mỹ.

Là Phật tử không chỉ giữ những giới cấm của đức Phật đã chế định như không sát sanh mà ngược lại còn phải phóng sanh những loài vật. Vì tất cả chúng sanh đều có bản chất ham sống và sợ chết, đều có chung một Phật tánh, đều có thể thành Phật. Do vậy Phật tử chúng ta cần giảm tối thiểu sự sát sanh trong từng bữa cơm gia đình.

Chúng ta không nên lấy vật của người, vì sẽ gây đau khổ cho người khác, bởi trong cuộc sống ai cũng quý đồ vật của mình. Ngược lại, ta còn phải giúp đỡ người khác, ví như thấy những người nghèo khổ, bệnh tật, ta nên chia sẻ và đồng cảm với họ. Ca dao Việt Nam có những câu: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng, v.v…”

Không tà dâm, nghĩa là trong gia đình thì vợ chồng sống phải có sự yêu thương, đoàn kết, thủy chung và tin tưởng lẫn nhau, đối xử với nhau như những người bạn tâm giao, tri kỷ; không quan hệ tình ái với người khác, đánh mất đi hạnh phúc gia đình.

Cuộc sống sẽ tốt đẹp, bình yên nếu như ai ai cũng nói lời yêu thương, hoan hỷ, nói lời thật. Vì đó là chân lý đem đến niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người xung quanh.

Trong cuộc sống khi giao tiếp với mọi người đôi khi chúng ta cần phải sử dụng đến rượu, nhưng nên uống biết chừng mực, xã giao để không dẫn đến những tệ nạn xã hội.

Phật dạy: “Không làm các điều ác. Siêng làm các việc lành” là nền tảng cốt tủy của đạo Phật. Đó là trì giới.

  • Thứ ba là Nhẫn nhục.

Nhẫn: là nhịn, chịu đựng những cảnh trái mắt nghịch lòng.

Nhục: là điều sỉ nhục, xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình.

Người xưa viết chữ nhẫn () nhằm dụng ý rất lớn. Bên trên là chữ đao (- con dao) bên dưới là chữ tâm (- con tim). Lưỡi dao ấy ở ngay trên tâm, và nếu như gặp chuyện mà không biết nhẫn nhịn thì tránh sao khỏi đau đớn, có nhẫn nhịn mới chuyển nguy thành yên, bại thành thắng, dữ thành lành…

Phật dạy: “Tất cả pháp (thế gian và Phật pháp) muốn thành tựu, đều bắt đầu từ việc nhẫn nhục. Người có tâm nhẫn nhục ít thì thành tựu ít. Người có tâm nhẫn nhục nhiều, thành tựu lớn”. Ví như ở thế gian ngày xưa muốn đậu trạng nguyên thì phải khổ công đèn sách mười năm.

Cổ đức dạy: Trong trăm hạnh thì Nhẫn nhục đứng đầu. Trăm đức, thì Từ bi là trước tiên”. Chính vì thế, chúng ta cần phải noi theo những tấm gương đức hạnh nhẫn nhục của chư Phật, Bồ-tát. Trong phần giải thích ý nghĩa các danh hiệu Phật, Bồ-tát, chúng ta thấy có một điểm chung, đó là mỗi vị đều có đức tánh Nhẫn nhục. Đức Phật luôn khen ngợi, tán thán những ai thực hành tính Nhẫn nhục. Trong kinh, đức Phật Thích-ca nói rằng nguyên nhân Ngài thành Phật trước đức Phật Di-lặc cũng bởi vì hơn đức hạnh Nhẫn nhục này. Truyện kể dưới đây minh chứng điều đó:

Tiên Nhân Nhẫn Nhục[5]

Một hôm, ngài A-nan bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn, do nhân duyên gì mà ngài A-nhã Kiều-trần-như được nghe pháp đầu tiên?”.

Đức Phật dạy: Vào thời quá khứ xa xưa, có một nước rộng lớn, dân chúng đông đúc, giàu vui. Cai trị nước này là một nhà vua tên Ca-lợi rất ham chơi. Vào mùa xuân, trăm hoa đua nở, cây cối xanh tươi, khí hậu ấm áp vua cùng các quan đại thần, cung phi mỹ nữ, nhạc công đi vào rừng đàn hát, vui chơi, ăn uống và nghỉ trưa dưới bóng cây râm mát.

Trong lúc vua đang nghỉ thì các cung phi mỹ nữ đi hái hoa trái. Họ đi theo dòng suối nước chảy trong veo. Hai bên bờ suối có những cây cao lớn xanh tươi, nhiều hoa dại, trái ngon. Đi một đoạn, các cung nữ gặp một vị tiên nhân đang tọa thiền trên tảng đá, dưới tàng cây râm mát bên bờ suối. Các cung nữ hái hoa trái đem dâng cúng và quỳ xuống đảnh lễ ngài và xin ngài được nghe pháp. Vị tiên nhân từ bi thuyết pháp cho các cung nữ nghe. Lời thuyết pháp của vị tiên nhân rất hay làm cho các cung nữ nghe mê say, quên mất nhà vua. Nhà vua sau khi thức dậy không thấy các cung nữ nên cùng với các quan đại thần đi tìm. Đi ngược theo dòng suối một đoạn thì gặp các cung nữ đang quỳ xung quanh vị tiên nhân nghe pháp. Thấy thế lòng sân hận ghen tức của nhà vua nổi lên. Vua liền đến hỏi vị tiên nhân: “Ông ở đây làm gì?”.

Vị tiên nhân đáp: “Tôi ở đây tu hành”.

Vua hỏi: “Ông đã đạt được tứ thiền chưa?”

Tiên nhân đáp: “Chưa”.

Vua hỏi tiếp: “Ông đã đạt được tam thiền, nhị thiền hay sơ thiền chưa?”.

Tiên nhân đáp: “Chưa”.

Nhà vua liền nói: “Như vậy ông chưa chứng được quả Thánh, vẫn còn phàm phu, còn tham dục. Tại sao dám nói chuyện với các cung nữ?”.

Tiên nhân đáp: “Tôi tuy chưa ly dục, nhưng do nhiếp tâm thiền định nên dục niệm không khởi”.

Vua liền hỏi: “Đạo là gì?”.

Tiên nhân đáp: “Đạo là nhẫn nhục”.

Vua nói: “Nếu nhà ngươi nhẫn nhục thì cho ta xin hai cái lỗ tai”. Nhà vua vừa nói xong, tiên nhân liền cắt hai tai. Vẻ mặt tiên nhân vẫn không biến sắc. Nhà vua lại xin hai tay và tiên nhân liền chặt đứt hai tay. Thấy thế các quan can vua: “Xin bệ hạ chớ làm hại vị tiên nhân này. Vị tiên nhân này là đại sĩ, vì khi chặt tay nét mặt vẫn không thay đổi”.

Nhà vua lại càng giận hơn và nói: “Vậy để ta xin hai chân nữa coi có biến sắc không?” Vua liền chặt đứt hai chân tiên nhân, khiến máu chảy lai láng.

Tứ Thiên vương thấy vậy bất bình, nổi giông gió định đánh chết nhà vua. Vị tiên nhân ngửa mặt lên trời nói: “Xin các vị thần đừng làm hại vị vua này”.

Nhà vua thấy giông gió bão tố liền sợ nên quỳ xuống xin sám hối thưa rằng: “Xin ngài tha thứ cho tội lỗi của tôi. Xin đừng giận tôi”.

Vị tiên nhân nói: “Thật tình thì tôi không giận nhà vua”.

Nhà vua thưa: “Ngài nói không giận nhưng hiện tại thân thể ngài bị đứt lìa, máu me lai láng mà ngài nói không giận thì tôi không tin”.

Vị tiên nhân bèn phát nguyện rằng: “Xin mười phương chư Phật chứng minh. Nếu trong lòng tôi không giận nhà vua, thì xin cho thân tôi bình phục lại như cũ”. Lạ lùng thay, khi vị tiên nhân vừa phát nguyện xong thì máu biến thành sữa, thân thể bình phục lại như trước.

Nhà vua hỏi vị tiên nhân: “Ngài tu nhẫn nhục như vậy có ích gì?”.

Vị tiên nhân nói: “Mục đích cầu thành Phật để cứu độ chúng sanh”.

Nhà vua lễ bái và phát nguyện: “Nếu khi ngài thành Phật thì xin độ tôi trước”.

Phật dạy: Vị tiên nhân nhẫn nhục là tiền thân của ta, còn vua Ca-lợi là tiền thân của ông Kiều-trần-như. Do quá khứ ông phát nguyện như thế nên đời này gặp ta và nghe pháp đầu tiên.

“Vua Ca-lợi ngày xưa độc ác,

Nổi sân si làm hại tiên nhân.

Tiên nhân trong dạ không hờn,

Phát nguyện thành Phật độ người trước tiên”.

Nhờ hạnh nhẫn nhục này mà đức Phật Thích-ca Mâu-ni trở thành vị Phật thứ tư trong hiền kiếp và thọ ký cho Bồ-tát Di-lặc trở thành vị Phật thứ năm trong tương lai. Phật dạy: “Một ngọn lửa nhỏ có thể thiêu cháy đám rừng. Cũng vậy,người tu hành nếu như có tâm sân giận sẽ thiêu cháy hết tất cả công đức tu tập”. Chính bởi tầm quan trọng của hạnh Nhẫn nhục, Phật tử chúng ta trong cuộc sống hằng ngày khi đối người, đối sự, đối vật phải luôn phản tỉnh, tự làm chủ bản thân của mình, dùng tâm hoan hỷ, hòa nhã trong giao tiếp ứng xử với mọi người xung quanh. Làm được như vậy mới đúng là người Phật tử của Như Lai.

Khổng Tử nói: “Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (Việc nhỏ mà không nhẫn được, thì việc lớn ắt sẽ hỏng). Tóm lại, chữ “nhẫn”, ngoài ý nghĩa chịu đựng, điềm tĩnh, còn được hiểu là tha thứ, từ-bi-hỷ-xả. Nhẫn là độ lượng, khoan dung, nhận đúng bản chất mà kiên tâm nhẫn nại... Nhẫn, chính là thể hiện bản lĩnh của con người.

  • Thứ tư là Tinh tấn.

Tinh: là tinh chuyên (ròng rặt), không có xen tạp.

Tấn: là tiến tới mãi mãi không dừng, không gián đoạn hay thoái lui.

Hai chữ tinh tấn nói theo nghĩa thông thường là siêng năng chuyên cần. Nhà thơ Lỗ Tấn có viết: Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng”.Cũng vậy, trên bước đường tu học Phật pháp, chúng ta cần phải lấy sự tinh tấn làm chìa khóa để mở những cánh cửa giác ngộ, giải thoát. Trong kinh kể câu chuyện như sau: Có lần đức Thế Tôn quở trách vị đệ tử A-nan-luật đã buông lung, phóng dật, giải đãi trong tu tập, Ngài nói Than ôi ông ham ngủ. Như sò ốc trong vỏ. Ngủ một giấc ngàn năm. Không nghe danh hiệu Phật!”. A-na-luật nghe xong, trong lòng rất hổ thẹn bèn phát nguyện tinh tấn tu hành không ngủ nữa. Cuối cùng ngài đã chứng quả A-la-hán trong bảy ngày.

Trong lời di huấn cuối cùng trước khi đức Phật nhập Niết-bàn: “Hỡi các người! Hãy tinh tấn lên để giải thoát. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Phật tử cần nên siêng năng làm những việc có lợi ích cho mọi người. Nếu còn nhỏ phải siêng năng học tập để thành đạt nhằm báo đáp công ơn sanh thành của cha mẹ.

  • Thứ năm là Thiền định.

Thiền: phiên âm theo tiếng Phạn là Thiền-na, xưa dịch là tư duy, nay dịch là tĩnh lự. Tu tư duy có nghĩa là tu tập bằng phương pháp suy nghiệm, nghiên tầm và suy cứu về những đối tượng của tâm thức. Tĩnh lự có nghĩa là dùng tâm thể vắng lặng để thẩm sát các vấn đề đạo pháp. 

Ðịnh: phiên âm theo tiếng Phạn là Tam-muội, có nghĩa là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất, không để cho tâm ý tán loạn. Vậy Thiền định có nghĩa là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất không cho tán loạn, để tâm thể được vắng lặng.

Như chúng ta nấu một bữa cơm cho gia đình, cần phải chú tâm, đặt tâm huyết của mình vào đó để có bữa cơm ngon, bổ. Khi mọi người ăn đều sanh tâm hoan hỷ. Trong vấn đề tu tập cũng vậy, Phật tử cần chú tâm vào thời khóa tụng niệm để đạt được kết quả tốt.

Tùy vào căn cơ của từng chúng sanh, mà đức Thế Tôn ứng cơ thuyết pháp. Tam tạng kinh điển mà Ngài để lại với 84000 pháp môn tu khác nhau. Đức Phật nói:“ Nước trong bốn biển chỉ có một vị, ấy là vị mặn. Cũng như thế đó, giáo pháp của ta tuy có muôn ngàn phương tiện pháp môn, nhưng duy nhất chỉ có một vị, đó là hương vị giải thoát”. Chính vì thế, chúng ta thấy mình phù hợp với pháp môn nào: Thiền, Tịnh, Mật, v.v…thì nên chuyên tâm nghiên cứu, tìm hiểu, tu tập để đạt được kết quả tốt. Ở thế gian chúng ta thấy cùng là ngành giáo viên, nhưng mọi người đều chuyên khoa một môn, người thì chuyên khoa văn, người thì chuyên khoa toán,v.v…Trong Phật pháp cũng vậy, nhắc đến Quán Thế Âm Bồ-tát chúng ta liền nghĩ ngay đến hạnh nguyện Từ bi, Địa Tạng Bồ-tát thì Nhẫn nhục, Văn Thù Bồ-tát thì Trí tuệ, Phổ Hiền Bồ-tát thì Thực hành, Di Lặc Bồ-tát thì Hỷ xả, v.v… Cùng là Đẳng giác Bồ tát, các Ngài đâu chỉ có một hạnh nguyện riêng biệt. Ví như Quán Thế Âm Bồ-tát ngoài hạnh nguyện Từ bi Ngài còn có vô lượng hạnh nguyện khác như Nhẫn nhục, Trí tuệ, Thực hành, Hỷ xả của các vị Bồ tát khác. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Một là tất cả, tất cả là một”. Ngày nay, mỗi khi chúng ta nhắc đến Hòa thượng Nhất Hạnh thì nghĩ ngay đến pháp môn Thiền, nhắc đến Hòa thượng Trí Tịnh thì nghĩ ngay đến pháp môn Tịnh độ, nhưng ngoài pháp môn Thiền Hòa thượng Nhất Hạnh cũng biết pháp môn Tịnh độ, và ngoài pháp môn Tịnh độ Hòa thượng Trí Tịnh cũng biết pháp môn Thiền. Bởi thế, Cổ đức dạy: “Một môn thông rồi thì tất cả môn đều thông”. Các Ngài đều là những tấm gương sáng, cho người học đời sau học theo, thực hành theo. Vậy mà, hàng Phật tử chúng ta ngày nay thì pháp môn nào cũng muốn học, cũng muốn tu, nhưng rồi có đạt được thành tựu gì không? Chúng ta phải tự hỏi, tự kiểm điểm lại mình. Người xưa có câu: “Một nghề cho chín còn hơn chín nghề”. Cổ đức dạy: “Nhứt môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Tóm lại, thiền định được hiểu trong cuộc sống cũng như trong vấn đề tu hành tu tâm chúng ta luôn kiên định, vững vàng trước mọi hoàn cảnh, được – mất, hơn – thua, đúng – sai, phải – trái, khen – chê. Đó là chúng ta tu thiền định.

  • Thứ sáu là Trí huệ.

Trí: phiên âm chữ phạn là Phã-na, nghĩa là quyết đoán.

Huệ: phiên âm chữ Phạn là Bát-nhã, nghĩa là giản trạch (chọn lựa).

Thông minh có thể hiểu là một phần nhỏ của trí huệ. Nhưng trong Phật pháp thì trí tuệ là do từ công phu tu tập, nhờ giữ giới mà được thiền định, định phát sanh trí tuệ. Đây mới là trí tuệ chân thật, đúng đắn, cứu cánh. Trong xã hội có rất nhiều chuyện không như ý muốn của mình, chúng ta cần phải đầy đủ trí tuệ để giải quyết mọi công việc một cách tốt đẹp; phân biệt được đâu là chánh-tà, đúng-sai, phải-trái, v.v… Trong gia đình những bậc làm cha mẹ thường dùng tình cảm để thương yêu con cái tuy nhiên, đôi lúc cũng cần phải dùng lý trí để răn dạy con cái điều hay lẽ phải để chúng biết ứng xử với mọi người xung quanh.

Đức Phật thuyết pháp rất khế lý, khế cơ. Khế lý là phù hợp với chân lý. Khế cơ là phù hợp với căn cơ của chúng sanh. Phật tử chúng ta cần phải có trí tuệ để phân biệt chọn pháp môn thích hợp với căn cơ của mình, nhằm tu tập được kết quả đem lại lợi ích cho mình và mọi người.

Kinh Pháp cú, đức Phật dạy:

“Hương các loài hoa thơm

Không bay theo ngược gió

Hương người đức hạnh đó

Ngược gió bay muôn phương”. 

Hương người đức hạnh đó”, đức Phật dạy cho người xuất gia và tại gia chứ không riêng một đối tượng nào. Mỗi khi nhìn thấy hoa, chúng ta nên liên tưởng đến việc tu nhân thiện bằng cách áp dụng pháp tu Lục độ vào trong cuộc sống, dùng tâm từ bi, yêu thương, chia sẻ, cảm thông đối với mọi người xung quanh. Nói như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “sống trong đời sống cần có một tấm lòng để gió cuốn đi”, 2 chữ tấm “tấm lòng” ở đây hàm ý phải chăng cố nhạc sĩ muốn nhắc nhở chúng ta cần có một trái tim yêu thương, chia sẻ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2020(Xem: 7484)
Người Phật tử tu hạnh Bồ Tát ngoài mười điều thiện, phải tu tập pháp “Lục Độ Ba La Mật”. Lục là sáu. Độ là vượt qua. Ba la mật nguyên âm tiếng Phạn là Paramita, người Trung hoa dịch nghĩa là “bỉ ngạn đáo”, nói theo tiếng Việt là “đến bờ bên kia”. Đây là sáu món tu tập có công năng như một chiếc thuyền, đưa mình từ bờ bên này, bờ vô minh của thế gian, vượt sang bờ bên kia, bờ giác ngộ của chư Phật. Kẻ tu hành muốn đến bờ giải thoát hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn tuệ. Tu phước gồm có: “bố thí, trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục”. Tu tuệ là “thiền định và trí tuệ”.
26/05/2020(Xem: 7078)
Nhà lãnh đạo tinh thần nhân dân Tây Tạng, cùng hòa điệu với các nhà khoa học nổi tiếng trong một bộ phim tài liệu với chủ đề tuyệt diệu đầy quyến rũ.
26/05/2020(Xem: 7995)
Nước ta ở vào địa thế phía Đông là biển cả bao la, phía Tây là dãy Trường Sơn trùng điệp, còn phương Bắc thì tiếp giáp với Trung Hoa, một quốc gia rộng lớn, hùng mạnh đã biết bao phen xâm chiếm nước ta, vì vậy dân tộc ta không còn sự chọn lựa nào khác hơn là phải nỗ lực tiến về Nam để tồn tại và phát triển. Trong các đợt mang gươm đi mở cõi, tộc Phạm có nhiều vị tướng tài giỏi, những nhà cai trị lỗi lạc đã giúp các vương triều hoàn thành sứ mạng lịch sử vĩ đại này.
26/05/2020(Xem: 9660)
Đàn chim bay ngang phố. Xao xác tiếng cánh vỗ. Con quạ già trên nhánh cây hè phố ngước nhìn một lúc, rồi im lặng sà xuống đất, nhảy lò cò vài bước với một chân bị què, tiếp tục kiếm ăn. Phố im lạ thường. Những con đường vắng xe đã vơi mùi khói xăng từ những ngày trước. Lan tỏa đâu đây hương bạch đàn hòa lẫn với mùi nước cống vẫn ngày đêm chảy ngầm dưới lòng đất. Thỉnh thoảng có tiếng còi hụ của xe cứu thương băng ngang góc phố xa. Khách bộ hành mang khẩu trang chỉ chừa lại hai mắt ngầu đục sau gọng kiếng râm, không sao nhìn ra được vẻ đẹp tráng lệ của một bình minh tràn ngập nắng tàn xuân. Gió mai lành lạnh trong công viên thành phố. Ông già ngồi phơi nắng trên chiếc ghế gấp mang theo từ nhà. Hai vợ chồng trẻ khoác áo gió dắt chó đi bộ quanh bãi cỏ xanh. Một cơn gió mạnh thổi qua làm cho những hàng cây rùng mình buông lá úa. Giờ không phải mùa thu, cũng chưa vào hạ, mà lá vàng vẫn rơi lác đác, trông như những cánh bướm cải nhởn nhơ trong gió. Nhưng không, chỉ trong thoáng chốc, n
25/05/2020(Xem: 12512)
Trưởng lão Cư sĩ David Robert Loy (sinh năm 1947), vị học giả người Mỹ, Giáo sư, tác gia, Giáo thọ Thiền Phật giáo thuộc Tam Bảo giáo (Sanbō Kyōdan, 三寶教), truyền thống Phật giáo Nhật Bản. Trưởng lão Cư sĩ David Robert chào đời tại Panama, khu vực kênh đào, (Đại bản doanh của Bộ Tư lệnh Phương Nam của quân đội Mỹ). Thân phụ của ông trong đơn vị Hải Quân Hoa Kỳ nên gia đình được đi du lịch rất nhiều. Thuở nhỏ, ông học trường Carleton College, Minnesota, một tiểu bang vùng Trung Tây của Hoa Kỳ, và sau đó du học khoa triết học tại trường King's College London (informally King's or KCL), Vương quốc Anh.
23/05/2020(Xem: 7098)
Con người ta, kể cả Đức Phật, Bồ Tát, La Hán hay thánh tăng khi còn sống thì vẫn phải đi đây đi đó, tiếp xúc, gặp gỡ, giao tiếp với người này người kia trừ khi sống ẩn tu trong hang động, núi rừng. Trong khi tiếp xúc, gặp gỡ như thế có thể “đối cảnh sanh tâm”. Thí dụ, khi bước vào một nhà giàu, có thể thể nảy sinh lòng ham muốn. Khi thấy người ta đeo nữ trang quý giá có thể sanh tâm thèm muốn hay đua đòi. Khi gặp cô gái, anh chàng đẹp trai có thể sanh tâm yêu mến. Từ yêu mến có thể sanh tâm chiếm đoạt.
22/05/2020(Xem: 9108)
Theo báo The Australian, vào ngày thứ hai 18/5/2020 trong Hội Nghị của Hội Đồng Y tế Thế giới (WHA), Úc cùng 136 nước khác trong số 194 các nước thành viên cùng đệ trình một Bản Dự Thảo Nghị Quyết mở cuộc điều tra. Bản Dự Thảo đã không bị bất cứ quốc gia nào phủ quyết, một việc chưa từng xảy ra trong bang giao quốc tế, nó nói lên sự chính đáng để có một cuộc điều tra về nguyên nhân gây ra đại dịch, cách giải quyết của từng quốc gia và rút ra bài học tránh thảm họa cho nhân loại. So với ý tưởng ban đầu của Thủ Tướng Scott Morrision, Bản Dự Thảo có đôi chỗ thay đổi. Úc đề nghị tiến hành một cuộc điều tra hoàn toàn độc lập với Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO), còn Liên Minh Châu Âu đề nghị cuộc điều tra sẽ do WHO chịu trách nhiệm, nhưng việc đầu tiên là phải điều tra cách giải quyết đại dịch của chính cơ quan WHO. Mặc dù Chủ Tịch Trung cộng Tập Cận Bình đồng ý tiến hành cuộc điều tra, nhưng Đại sứ Trung cộng tại Úc, ông Thành Cảnh Nghiệp tuyên bố cuộc điều tra “hoàn toàn khác” với
21/05/2020(Xem: 8404)
Sáng thứ sáu, ngày 10 tháng 4 năm 2020 một phi hành đoàn gồm các phi hành gia của Hoa Kỳ và Nga từ trạm không gian quốc tế ISS đã hạ cánh xuống bãi đáp ở Kazakhstan, sau 200 ngày thi hành phi vụ. Thông thường, nhiệm vụ của họ là thám hiểm những hành tinh xa xôi, tìm hiểu những gì mà người dưới trái đất chưa được biết, chưa được thấy. Nhưng trở lại trái đất lần này, họ sửng sốt, ngạc nhiên vì dường như trái đất không còn giống như khi họ ra đi, 200 ngày trước.
21/05/2020(Xem: 6177)
Tổng Hiệp hội Tông phái Phật giáo Hàn Quốc đã tổ chức buổi họp báo hôm thứ Ba, ngày 19/5 vừa qua, nhằm công bố hủy một số sự kiện Kỷ niệm Quốc lễ Phật đản PL. 2564 và nhiễu hành xe hoa, Lantern Festival 2020, dự kiến diễn ra vào tháng 5 dương lịch này tại trung tâm thủ đô Seoul.
21/05/2020(Xem: 6074)
Những người theo đạo Phật ở Bồ đề Đạo tràng (Bodh Gaya), Ấn Độ, đã lên tiếng việc lo ngại về việc cung cấp chỗ ở tạm thời cho người Ấn Độ đang đáp bay, đến từ các khu vực trên thế giới bị đại dịch Virus corona tấn công. Hội đồng Phật giáo Quốc tế (The International Buddhist Council), cơ quan đại diện cho hơn 50 cơ sở tự viện Phật giáo tại Bồ đề Đạo tràng và khu vực lân cận, đã đưa ra một tuyên bố yêu cầu đề xuất các địa điểm kiểm dịch, trong đó bao gồm các cơ sở tự viện Phật giáo, không được sử dụng và người Ấn Độ trở về từ nước ngoài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]