Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Ý nghĩa của việc cúng hoa

18/09/201215:28(Xem: 9734)
1. Ý nghĩa của việc cúng hoa

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

V. Ý NGHĨA CỦA NHỮNG VẬT ĐƯỢC THỜ CÚNG

Phật giáo không phải là một Tôn giáo, mà là một nền giáo dục, giáo học thực tiễn, thiết thực nhất trong cuộc sống, nhằm mục đích giúp chúng sanh tu nhân học Phật, chuyển mê khai ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Chính vì thế, Phật giáo là một trường học, còn các danh hiệu Phật, Bồ-tát, cũng như những vật được thờ cúng như bông, trái cây, nước, nhang, đèn, v.v.. là các môn học trong trường. Nhằm tránh tình trạng cho rằng Phật giáo mê tín, dị đoan, chỉ biết van xin, cầu nguyện; cũng để giúp hàng Phật tử chúng ta hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu chân thật về nền giáo học của Phật giáo, người viết xin giải thích sơ lược về ý nghĩa của những vật được thờ cúng.

V.1. Ý nghĩa của việc cúng hoa

Cúng hoa trước tượng Phật tượng trưng cho việc tu nhân. Thế gian hay Phật pháp đều không rời nhân quả, đều dựa trên nền tảng của nhân quả. Đa số các loại hoa cùng có chung mục đích, đó là tỏa ra hương thơm. Thấy hoa, chúng ta nghĩ ngay đến việc phải tu nhân thiện, bằng những việc làm có ích cho mọi người, mọi loài. Có thế, tương lai chúng ta mới gặt hái quả tươi tốt. Trong cuộc sống hằng ngày, khi ứng xử, giao tiếp với mọi người, ta cần phải tỏa ra hương thơm của đức hạnh, phẩm chất, làm tấm gương sáng cho người noi theo.

binhbongcungPhat-thichhanhphu

Bình bông cúng Phật – ảnh minh họa

Tham, sân, si là nguồn gốc của sanh tử luân hồi. Chính vì chưa hiểu được Phật pháp, nên Phật tử thường đến chùa thắp nhang cầu chư Phật, Bồ-tát gia hộ cho việc làm ăn được phát tài, được mạnh khỏe. Nhưng mấy ai được như ý! Phải chăng Phật, Bồ-tát không linh, không gia hộ, không che chở cho mình và gia đình? Trong kinh Đại thừa, đức Phật dạy: “vạn pháp giai không, nhân quả bất không” (Tất cả pháp đều không chân thật, đều hư giả, chỉ có nhân quả là chân thật, đúng đắn). Nghĩa là, nhân quả của mỗi người thì tự mình thọ nhận, chứ chư Phật, Bồ-tát không thể giúp được. Thiện nhân có thiện quả, ác nhân có ác báo, gieo gió nhất định gặp bão, ai ăn đấy no, ai tu đấy chứng, v.v… Trong Phật pháp đại thừa, hoa tượng trưng cho Lục độ vạn hạnh của Bồ-tát, tức Bố thí – Trì giới – Nhẫn nhục – Tinh tấn – Thiền định – Bát nhã.

  • Thứ nhất là Bố thí: gồm:

a. Bố thí tài:

v Ngoại tài: chúng ta đem những tài sản như tiền bạc, những vật ngoài thân thể để giúp đỡ những người nghèo khó khổ, trong khả năng của mình có thể làm được.

v Nội tài: hiện nay trong xã hội có chương trình hiến máu nhân đạo, Phật tử có thể hiến máu của mình cho những người bệnh; hoặc đem sức khỏe, thể lực, tinh thần của mình để phục vụ nghĩa công (làm những việc từ thiện) như trông nom chăm sóc những người bệnh, già, neo đơn v.v… Phật dạy: bố thí nội tài công đức lớn hơn bố thí ngoại tài. Nhưng điều quan trọng là chúng ta làm với tâm từ bi, giúp đỡ, không mong cầu danh lợi, tiếng tăm, không cầu hồi báo, không mong sự biết ơn, không thấy mình thí, không thấy người nhận thí, không thấy vật để thí, thì công đức mới tròn đầy viên mãn. Đó gọi là Bố thí Ba-la-mật. Nếu Phật tử làm được hạnh bố thí như vậy thì kết quả sẽ được giàu sang, được nhiều người kính mến, yêu thương.

b.Bố thí pháp:

Là đem tiền bạc của mình dùng vào việc ấn tống kinh sách, tượng Phật, biếu tặng đến mọi người. Hoặc đem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy quý báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác, đó là dùng khẩu giáo. Hoặc y theo giới luật của Phật mà tu hành thành thật, làm khuôn mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh…, đó đều là pháp thí, gọi là thân giáo. Pháp thí có một giá trị rất lớn lao hơn cả tài thí, vì tài thí chỉ có thể giúp người khác lúc túng thiếu về phương diện vật chất trong một thời gian nhất định, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Nhưng pháp thí thì có thể giúp đỡ mọi người rất nhiều về phương diện tinh thần, không riêng gì đối với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, không phải chỉ có ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn, mà gieo nhân lành cho nhiều đời nhiều kiếp về sau.

c. Bố thí vô úy:

Vô úy là không sợ hãi. Đem sự bình an, niềm vui, hạnh phúc đến mọi loài, như an ủi, phóng sanh. Cổ đức khuyên dạy ăn chay là việc làm tốt nhất đem đến sự không sợ hãi đến với chúng sanh. Phật tử làm được ba việc bố thí trên, như Bố thí tài sẽ được giàu sang. Bố thí pháp được thông minh, trí tuệ. Bố thí vô úy được khỏe mạnh, sống lâu.

Bố thí còn được hiểu theo nghĩa rộng, là sự buông xả. Trên con đường tu tập, Phật tử muốn đạt giác ngộ, giải thoát khỏi lục đạo luân hồi, thì cách tốt nhất là buông xả năm món phiền não: tham lam, sân giận, ngu si, ngã mạn, nghi.

  • Thứ hai là Trì giới.

Trì: là cầm lấy, giữ gìn.

Giới: là răn dạy, phòng hộ.

Trì giới nghĩa là giữ gìn những điều răn dạy, ngăn cấm; gìn giữ những giới luật mà đức Phật đã chế ra để hướng dẫn các đệ tử của Ngài đi vào con đường chân chánh nhằm đạt đến quả vị giải thoát. Người Phật tử tại gia cần giữ gìn năm giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu). Đây là những điều căn bản của việc tu nhân học Phật. Nếu người chưa thọ giới thì giữ gìn những hiến chương, pháp luật của nhà nước đã qui định. Trong cuộc sống, chúng ta làm tròn nghĩa vụ của một người công dân, gương mẫu trong gia đình và xã hội, hoàn thiện bản thân, để đạt đến chân-thiện-mỹ.

Là Phật tử không chỉ giữ những giới cấm của đức Phật đã chế định như không sát sanh mà ngược lại còn phải phóng sanh những loài vật. Vì tất cả chúng sanh đều có bản chất ham sống và sợ chết, đều có chung một Phật tánh, đều có thể thành Phật. Do vậy Phật tử chúng ta cần giảm tối thiểu sự sát sanh trong từng bữa cơm gia đình.

Chúng ta không nên lấy vật của người, vì sẽ gây đau khổ cho người khác, bởi trong cuộc sống ai cũng quý đồ vật của mình. Ngược lại, ta còn phải giúp đỡ người khác, ví như thấy những người nghèo khổ, bệnh tật, ta nên chia sẻ và đồng cảm với họ. Ca dao Việt Nam có những câu: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng, v.v…”

Không tà dâm, nghĩa là trong gia đình thì vợ chồng sống phải có sự yêu thương, đoàn kết, thủy chung và tin tưởng lẫn nhau, đối xử với nhau như những người bạn tâm giao, tri kỷ; không quan hệ tình ái với người khác, đánh mất đi hạnh phúc gia đình.

Cuộc sống sẽ tốt đẹp, bình yên nếu như ai ai cũng nói lời yêu thương, hoan hỷ, nói lời thật. Vì đó là chân lý đem đến niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người xung quanh.

Trong cuộc sống khi giao tiếp với mọi người đôi khi chúng ta cần phải sử dụng đến rượu, nhưng nên uống biết chừng mực, xã giao để không dẫn đến những tệ nạn xã hội.

Phật dạy: “Không làm các điều ác. Siêng làm các việc lành” là nền tảng cốt tủy của đạo Phật. Đó là trì giới.

  • Thứ ba là Nhẫn nhục.

Nhẫn: là nhịn, chịu đựng những cảnh trái mắt nghịch lòng.

Nhục: là điều sỉ nhục, xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình.

Người xưa viết chữ nhẫn () nhằm dụng ý rất lớn. Bên trên là chữ đao (- con dao) bên dưới là chữ tâm (- con tim). Lưỡi dao ấy ở ngay trên tâm, và nếu như gặp chuyện mà không biết nhẫn nhịn thì tránh sao khỏi đau đớn, có nhẫn nhịn mới chuyển nguy thành yên, bại thành thắng, dữ thành lành…

Phật dạy: “Tất cả pháp (thế gian và Phật pháp) muốn thành tựu, đều bắt đầu từ việc nhẫn nhục. Người có tâm nhẫn nhục ít thì thành tựu ít. Người có tâm nhẫn nhục nhiều, thành tựu lớn”. Ví như ở thế gian ngày xưa muốn đậu trạng nguyên thì phải khổ công đèn sách mười năm.

Cổ đức dạy: Trong trăm hạnh thì Nhẫn nhục đứng đầu. Trăm đức, thì Từ bi là trước tiên”. Chính vì thế, chúng ta cần phải noi theo những tấm gương đức hạnh nhẫn nhục của chư Phật, Bồ-tát. Trong phần giải thích ý nghĩa các danh hiệu Phật, Bồ-tát, chúng ta thấy có một điểm chung, đó là mỗi vị đều có đức tánh Nhẫn nhục. Đức Phật luôn khen ngợi, tán thán những ai thực hành tính Nhẫn nhục. Trong kinh, đức Phật Thích-ca nói rằng nguyên nhân Ngài thành Phật trước đức Phật Di-lặc cũng bởi vì hơn đức hạnh Nhẫn nhục này. Truyện kể dưới đây minh chứng điều đó:

Tiên Nhân Nhẫn Nhục[5]

Một hôm, ngài A-nan bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn, do nhân duyên gì mà ngài A-nhã Kiều-trần-như được nghe pháp đầu tiên?”.

Đức Phật dạy: Vào thời quá khứ xa xưa, có một nước rộng lớn, dân chúng đông đúc, giàu vui. Cai trị nước này là một nhà vua tên Ca-lợi rất ham chơi. Vào mùa xuân, trăm hoa đua nở, cây cối xanh tươi, khí hậu ấm áp vua cùng các quan đại thần, cung phi mỹ nữ, nhạc công đi vào rừng đàn hát, vui chơi, ăn uống và nghỉ trưa dưới bóng cây râm mát.

Trong lúc vua đang nghỉ thì các cung phi mỹ nữ đi hái hoa trái. Họ đi theo dòng suối nước chảy trong veo. Hai bên bờ suối có những cây cao lớn xanh tươi, nhiều hoa dại, trái ngon. Đi một đoạn, các cung nữ gặp một vị tiên nhân đang tọa thiền trên tảng đá, dưới tàng cây râm mát bên bờ suối. Các cung nữ hái hoa trái đem dâng cúng và quỳ xuống đảnh lễ ngài và xin ngài được nghe pháp. Vị tiên nhân từ bi thuyết pháp cho các cung nữ nghe. Lời thuyết pháp của vị tiên nhân rất hay làm cho các cung nữ nghe mê say, quên mất nhà vua. Nhà vua sau khi thức dậy không thấy các cung nữ nên cùng với các quan đại thần đi tìm. Đi ngược theo dòng suối một đoạn thì gặp các cung nữ đang quỳ xung quanh vị tiên nhân nghe pháp. Thấy thế lòng sân hận ghen tức của nhà vua nổi lên. Vua liền đến hỏi vị tiên nhân: “Ông ở đây làm gì?”.

Vị tiên nhân đáp: “Tôi ở đây tu hành”.

Vua hỏi: “Ông đã đạt được tứ thiền chưa?”

Tiên nhân đáp: “Chưa”.

Vua hỏi tiếp: “Ông đã đạt được tam thiền, nhị thiền hay sơ thiền chưa?”.

Tiên nhân đáp: “Chưa”.

Nhà vua liền nói: “Như vậy ông chưa chứng được quả Thánh, vẫn còn phàm phu, còn tham dục. Tại sao dám nói chuyện với các cung nữ?”.

Tiên nhân đáp: “Tôi tuy chưa ly dục, nhưng do nhiếp tâm thiền định nên dục niệm không khởi”.

Vua liền hỏi: “Đạo là gì?”.

Tiên nhân đáp: “Đạo là nhẫn nhục”.

Vua nói: “Nếu nhà ngươi nhẫn nhục thì cho ta xin hai cái lỗ tai”. Nhà vua vừa nói xong, tiên nhân liền cắt hai tai. Vẻ mặt tiên nhân vẫn không biến sắc. Nhà vua lại xin hai tay và tiên nhân liền chặt đứt hai tay. Thấy thế các quan can vua: “Xin bệ hạ chớ làm hại vị tiên nhân này. Vị tiên nhân này là đại sĩ, vì khi chặt tay nét mặt vẫn không thay đổi”.

Nhà vua lại càng giận hơn và nói: “Vậy để ta xin hai chân nữa coi có biến sắc không?” Vua liền chặt đứt hai chân tiên nhân, khiến máu chảy lai láng.

Tứ Thiên vương thấy vậy bất bình, nổi giông gió định đánh chết nhà vua. Vị tiên nhân ngửa mặt lên trời nói: “Xin các vị thần đừng làm hại vị vua này”.

Nhà vua thấy giông gió bão tố liền sợ nên quỳ xuống xin sám hối thưa rằng: “Xin ngài tha thứ cho tội lỗi của tôi. Xin đừng giận tôi”.

Vị tiên nhân nói: “Thật tình thì tôi không giận nhà vua”.

Nhà vua thưa: “Ngài nói không giận nhưng hiện tại thân thể ngài bị đứt lìa, máu me lai láng mà ngài nói không giận thì tôi không tin”.

Vị tiên nhân bèn phát nguyện rằng: “Xin mười phương chư Phật chứng minh. Nếu trong lòng tôi không giận nhà vua, thì xin cho thân tôi bình phục lại như cũ”. Lạ lùng thay, khi vị tiên nhân vừa phát nguyện xong thì máu biến thành sữa, thân thể bình phục lại như trước.

Nhà vua hỏi vị tiên nhân: “Ngài tu nhẫn nhục như vậy có ích gì?”.

Vị tiên nhân nói: “Mục đích cầu thành Phật để cứu độ chúng sanh”.

Nhà vua lễ bái và phát nguyện: “Nếu khi ngài thành Phật thì xin độ tôi trước”.

Phật dạy: Vị tiên nhân nhẫn nhục là tiền thân của ta, còn vua Ca-lợi là tiền thân của ông Kiều-trần-như. Do quá khứ ông phát nguyện như thế nên đời này gặp ta và nghe pháp đầu tiên.

“Vua Ca-lợi ngày xưa độc ác,

Nổi sân si làm hại tiên nhân.

Tiên nhân trong dạ không hờn,

Phát nguyện thành Phật độ người trước tiên”.

Nhờ hạnh nhẫn nhục này mà đức Phật Thích-ca Mâu-ni trở thành vị Phật thứ tư trong hiền kiếp và thọ ký cho Bồ-tát Di-lặc trở thành vị Phật thứ năm trong tương lai. Phật dạy: “Một ngọn lửa nhỏ có thể thiêu cháy đám rừng. Cũng vậy,người tu hành nếu như có tâm sân giận sẽ thiêu cháy hết tất cả công đức tu tập”. Chính bởi tầm quan trọng của hạnh Nhẫn nhục, Phật tử chúng ta trong cuộc sống hằng ngày khi đối người, đối sự, đối vật phải luôn phản tỉnh, tự làm chủ bản thân của mình, dùng tâm hoan hỷ, hòa nhã trong giao tiếp ứng xử với mọi người xung quanh. Làm được như vậy mới đúng là người Phật tử của Như Lai.

Khổng Tử nói: “Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (Việc nhỏ mà không nhẫn được, thì việc lớn ắt sẽ hỏng). Tóm lại, chữ “nhẫn”, ngoài ý nghĩa chịu đựng, điềm tĩnh, còn được hiểu là tha thứ, từ-bi-hỷ-xả. Nhẫn là độ lượng, khoan dung, nhận đúng bản chất mà kiên tâm nhẫn nại... Nhẫn, chính là thể hiện bản lĩnh của con người.

  • Thứ tư là Tinh tấn.

Tinh: là tinh chuyên (ròng rặt), không có xen tạp.

Tấn: là tiến tới mãi mãi không dừng, không gián đoạn hay thoái lui.

Hai chữ tinh tấn nói theo nghĩa thông thường là siêng năng chuyên cần. Nhà thơ Lỗ Tấn có viết: Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng”.Cũng vậy, trên bước đường tu học Phật pháp, chúng ta cần phải lấy sự tinh tấn làm chìa khóa để mở những cánh cửa giác ngộ, giải thoát. Trong kinh kể câu chuyện như sau: Có lần đức Thế Tôn quở trách vị đệ tử A-nan-luật đã buông lung, phóng dật, giải đãi trong tu tập, Ngài nói Than ôi ông ham ngủ. Như sò ốc trong vỏ. Ngủ một giấc ngàn năm. Không nghe danh hiệu Phật!”. A-na-luật nghe xong, trong lòng rất hổ thẹn bèn phát nguyện tinh tấn tu hành không ngủ nữa. Cuối cùng ngài đã chứng quả A-la-hán trong bảy ngày.

Trong lời di huấn cuối cùng trước khi đức Phật nhập Niết-bàn: “Hỡi các người! Hãy tinh tấn lên để giải thoát. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Phật tử cần nên siêng năng làm những việc có lợi ích cho mọi người. Nếu còn nhỏ phải siêng năng học tập để thành đạt nhằm báo đáp công ơn sanh thành của cha mẹ.

  • Thứ năm là Thiền định.

Thiền: phiên âm theo tiếng Phạn là Thiền-na, xưa dịch là tư duy, nay dịch là tĩnh lự. Tu tư duy có nghĩa là tu tập bằng phương pháp suy nghiệm, nghiên tầm và suy cứu về những đối tượng của tâm thức. Tĩnh lự có nghĩa là dùng tâm thể vắng lặng để thẩm sát các vấn đề đạo pháp. 

Ðịnh: phiên âm theo tiếng Phạn là Tam-muội, có nghĩa là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất, không để cho tâm ý tán loạn. Vậy Thiền định có nghĩa là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất không cho tán loạn, để tâm thể được vắng lặng.

Như chúng ta nấu một bữa cơm cho gia đình, cần phải chú tâm, đặt tâm huyết của mình vào đó để có bữa cơm ngon, bổ. Khi mọi người ăn đều sanh tâm hoan hỷ. Trong vấn đề tu tập cũng vậy, Phật tử cần chú tâm vào thời khóa tụng niệm để đạt được kết quả tốt.

Tùy vào căn cơ của từng chúng sanh, mà đức Thế Tôn ứng cơ thuyết pháp. Tam tạng kinh điển mà Ngài để lại với 84000 pháp môn tu khác nhau. Đức Phật nói:“ Nước trong bốn biển chỉ có một vị, ấy là vị mặn. Cũng như thế đó, giáo pháp của ta tuy có muôn ngàn phương tiện pháp môn, nhưng duy nhất chỉ có một vị, đó là hương vị giải thoát”. Chính vì thế, chúng ta thấy mình phù hợp với pháp môn nào: Thiền, Tịnh, Mật, v.v…thì nên chuyên tâm nghiên cứu, tìm hiểu, tu tập để đạt được kết quả tốt. Ở thế gian chúng ta thấy cùng là ngành giáo viên, nhưng mọi người đều chuyên khoa một môn, người thì chuyên khoa văn, người thì chuyên khoa toán,v.v…Trong Phật pháp cũng vậy, nhắc đến Quán Thế Âm Bồ-tát chúng ta liền nghĩ ngay đến hạnh nguyện Từ bi, Địa Tạng Bồ-tát thì Nhẫn nhục, Văn Thù Bồ-tát thì Trí tuệ, Phổ Hiền Bồ-tát thì Thực hành, Di Lặc Bồ-tát thì Hỷ xả, v.v… Cùng là Đẳng giác Bồ tát, các Ngài đâu chỉ có một hạnh nguyện riêng biệt. Ví như Quán Thế Âm Bồ-tát ngoài hạnh nguyện Từ bi Ngài còn có vô lượng hạnh nguyện khác như Nhẫn nhục, Trí tuệ, Thực hành, Hỷ xả của các vị Bồ tát khác. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Một là tất cả, tất cả là một”. Ngày nay, mỗi khi chúng ta nhắc đến Hòa thượng Nhất Hạnh thì nghĩ ngay đến pháp môn Thiền, nhắc đến Hòa thượng Trí Tịnh thì nghĩ ngay đến pháp môn Tịnh độ, nhưng ngoài pháp môn Thiền Hòa thượng Nhất Hạnh cũng biết pháp môn Tịnh độ, và ngoài pháp môn Tịnh độ Hòa thượng Trí Tịnh cũng biết pháp môn Thiền. Bởi thế, Cổ đức dạy: “Một môn thông rồi thì tất cả môn đều thông”. Các Ngài đều là những tấm gương sáng, cho người học đời sau học theo, thực hành theo. Vậy mà, hàng Phật tử chúng ta ngày nay thì pháp môn nào cũng muốn học, cũng muốn tu, nhưng rồi có đạt được thành tựu gì không? Chúng ta phải tự hỏi, tự kiểm điểm lại mình. Người xưa có câu: “Một nghề cho chín còn hơn chín nghề”. Cổ đức dạy: “Nhứt môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Tóm lại, thiền định được hiểu trong cuộc sống cũng như trong vấn đề tu hành tu tâm chúng ta luôn kiên định, vững vàng trước mọi hoàn cảnh, được – mất, hơn – thua, đúng – sai, phải – trái, khen – chê. Đó là chúng ta tu thiền định.

  • Thứ sáu là Trí huệ.

Trí: phiên âm chữ phạn là Phã-na, nghĩa là quyết đoán.

Huệ: phiên âm chữ Phạn là Bát-nhã, nghĩa là giản trạch (chọn lựa).

Thông minh có thể hiểu là một phần nhỏ của trí huệ. Nhưng trong Phật pháp thì trí tuệ là do từ công phu tu tập, nhờ giữ giới mà được thiền định, định phát sanh trí tuệ. Đây mới là trí tuệ chân thật, đúng đắn, cứu cánh. Trong xã hội có rất nhiều chuyện không như ý muốn của mình, chúng ta cần phải đầy đủ trí tuệ để giải quyết mọi công việc một cách tốt đẹp; phân biệt được đâu là chánh-tà, đúng-sai, phải-trái, v.v… Trong gia đình những bậc làm cha mẹ thường dùng tình cảm để thương yêu con cái tuy nhiên, đôi lúc cũng cần phải dùng lý trí để răn dạy con cái điều hay lẽ phải để chúng biết ứng xử với mọi người xung quanh.

Đức Phật thuyết pháp rất khế lý, khế cơ. Khế lý là phù hợp với chân lý. Khế cơ là phù hợp với căn cơ của chúng sanh. Phật tử chúng ta cần phải có trí tuệ để phân biệt chọn pháp môn thích hợp với căn cơ của mình, nhằm tu tập được kết quả đem lại lợi ích cho mình và mọi người.

Kinh Pháp cú, đức Phật dạy:

“Hương các loài hoa thơm

Không bay theo ngược gió

Hương người đức hạnh đó

Ngược gió bay muôn phương”. 

Hương người đức hạnh đó”, đức Phật dạy cho người xuất gia và tại gia chứ không riêng một đối tượng nào. Mỗi khi nhìn thấy hoa, chúng ta nên liên tưởng đến việc tu nhân thiện bằng cách áp dụng pháp tu Lục độ vào trong cuộc sống, dùng tâm từ bi, yêu thương, chia sẻ, cảm thông đối với mọi người xung quanh. Nói như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “sống trong đời sống cần có một tấm lòng để gió cuốn đi”, 2 chữ tấm “tấm lòng” ở đây hàm ý phải chăng cố nhạc sĩ muốn nhắc nhở chúng ta cần có một trái tim yêu thương, chia sẻ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4537)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7356)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4769)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4881)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5317)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10296)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9043)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6112)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8810)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4990)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]