Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Danh hiệu thứ tư: Nam-mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát

18/09/201215:28(Xem: 9726)
4. Danh hiệu thứ tư: Nam-mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

IV. Ý NGHĨA CỦA CÁC DANH HIỆU PHẬT, BỒ-TÁT[2]

IV.4. Danh hiệu thứ tư: NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT

HoặcNAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT

Trong văn hóa truyền thống của người Á Đông chúng ta, có lẽ danh hiệu của hai vị Bồ-tát Quán Thế Âm và Địa Tạng Bồ-tát là gần gũi, thân quen đối với mọi người. Bởi vì lúc còn sống, mỗi khi gặp chuyện đau khổ, nguy nan, chúng ta liền nghĩ ngay đến Quán Thế Âm Bồ-tát như một niềm an ủi, động viên về tinh thần. Đến lúc mất (chết) thì nương nhờ vào Địa Tạng Bồ-tát mong Ngài xót thương đưa đường dẫn lối thoát khỏi nơi đau khổ của chốn địa ngục. Đời người còn việc gì lớn lao hơn sống và chết, như trong “Ngũ phước lâm môn”, mọi người hay mong cầu không ngoài mục đích lúc sống mạnh khỏe, bình an, phát tài, làm việc tốt, lúc chết được tốt lành(không bệnh tật). Chính vì thế mà hình tượng danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng cũng được nhiều người biết đến. Vậy ý nghĩa danh hiệu và hạnh nguyện của Ngài là gì?

Danh xưng Địa Tạng theo các kinh luận giải thích đã toát lên được bi tâm, nguyện lực kiên cố của Bồ-tát.

Đại: nghĩa là lớn, to, rộng.

Nguyện: là lời phát nguyện. Nói cho dễ hiểu là lời thề thốt hứa hẹn của mình về một vấn đề gì đối với ai đó.

Địa: nghĩa là đất, còn được hiểu là tâm địa của con người.

Tạng: nghĩa là hàm tàng, chứa đựng, nơi cất giấu.

Bài Tựakinh Địa Tạngnói: “Địa là dày chắc. Tạng chứa đủ”. Kinh Địa Tạng Thập Luậnnói: “An nhẫn bất động như đại địa, vắng lặng sâu kín giống như kho tàng nên gọi là Địa Tạng”. Kinh Phương Quảng Thập Luậnnói: “Địa Tạng là kho báu giấu kín trong lòng đất”. Tóm thâu ý nghĩa của danh xưng Địa Tạng lại thì Địa là đất, dụ cho bản thể chân tâm khéo làm nơi nương tựa và sanh trưởng vạn pháp. Tạng là hầm báu, kho báu. Địa Tạng nghĩa là trong bản thể chân tâm có chứa vô lượng báu vật Phật pháp, có thể đem bố thí khắp khiến chúng sanh đồng được vô lượng công đức.

Vương: nghĩa là vua. Do bởi lời phát nguyện cao thâm rộng lớn khó hành “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật. Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề” nên Ngài được “chư Phật ba đời đồng khen chuộng. Mười phương Bồ- tát chung tin tưởng”là vua trong các vị Bồ tát.

Bồ-tát thường tùy nguyện ứng hiện vào thế giới Ta-bà bằng nhiều hình tướng sai khác để hóa độ chúng sanh. Tuy nhiên đa số chúng ta biết đến Ngài qua hình ảnh một vị Tỳ-kheo thân tướng trang nghiêm, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu, đầu đội mũ Tỳ-lư quán đảnh, đứng hoặc ngồi trên con đế-thính. Sở dĩ Ngài hiện thân tướng Tỳ-kheo, do vì bản nguyện của Ngài là cứu độ chúng sanh ra khỏi cảnh giới sanh tử, nên Ngài mang hình ảnh một vị xuất gia giải thoát.

Dia_Tang_Bo_Tat

NamMô Địa Tạng Vương Bồ Tát - ảnh minh họa

Tay phải cầm tích trượng, trên đầu tích trượng có mười hai khoen để nói lên ý nghĩa rằng, Ngài luôn dùng pháp Thập nhị nhân duyên (Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão tử) để giáo hóa chúng sanh. Tay trái Bồ-tát cầm hạt minh châu biểu thị Trí tuệ. Bồ-tát với trí tuệ rộng lớn thường soi sáng tất cả chốn u minh (địa ngục), khiến cho chúng sanh hiện đang bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng đều được thoát khỏi ngục hình. Con đế thính mà Bồ-tát cưỡi là linh thú, khi mọp xuống đất trong giây lát thì biết rõ tất cả sự vật trong trời đất. này biểu trưng ý nghĩa rằng Ngài là vị đã nhiếp tâm thanh tịnh, an lập các pháp thức thành tựu cảnh giới thiền định.

  • Hạnh nguyện của Địa Tạng Bồ-tát.

Trên bước đường tu hành, nếu như muốn đạt đến ngôi vị Phật quả, đều phải trải qua giai đoạn hành Bồ-tát đạo, nghĩa là mỗi vị Bồ-tát như Quán Âm, Thế Chí, Văn-thù, Phổ Hiền, Di-lặc, v.v… đều phải phát những hạnh nguyện độ sanh. Tùy theo từng vị mà phát những hạnh nguyện khác nhau, có vị phát nhiều hạnh nguyện, có vị phát ít hạnh nguyện, tất cả không ngoài mục đích là cứu độ chúng sanh, ban vui, cứu khổ mọi loài. Trong đó, thệ nguyện của Bồ-tát Địa Tạng thì sâu dày, rộng lớn hơn so với các vị Bồ-tát khác. Điều này đã được xác quyết trong kinh Địa Tạng, phẩm Kiên Lao Địa Thần, thứ mười một. Kiên Lao Địa Thần đã đối trước Phật nói rõ điều này: “Bạch Thế Tôn, từ trước đến nay con đã từng đảnh lễ chiêm ngưỡng vô lượng vị Đại Bồ-tát, đều là những bậc trí tuệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn, độ khắp tất cả loài chúng sanh. Tuy nhiên ngài Địa Tạng Bồ-tát đây so với các vị Bồ-tát khác chỗ thệ nguyện rộng sâu hơn”. Chúng ta thấy lý tưởng và công hạnh của ngài Địa Tạng Bồ-tát được đức Phật mô tả rất nhiều qua các kinh điển Đại thừa như: Phật Thuyết Đại Phương Quảng Thập Luân kinh, Ðại Thừa Ðại Tập Ðịa Tạng Thập Luân kinh, Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo kinh, Phật thuyết La-ma-già kinh, Hoa Nghiêm kinh, Hoa Nghiêm kinh-Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, Hoa Nghiêm Thập Ðịa kinh, Ðại Thừa Bổn Sanh Tâm Ðịa Quán kinh, Phật Thuyết Bát Ðại Bồ-tát kinh, v.v…

Đặc biệt, trong Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện kinh, Đức Phật kể lại những chuyện tiền thân của Bồ-tát Địa Tạng trong khi hành Bồ-tát đạo, phát thệ nguyện cứu khổ chúng sanh. Qua đó, chúng ta thấy được hạnh nguyện vĩ đại của Ngài. Hạnh nguyện nổi bật đó không ngoài hai điểm: tinh thần hiếu đạo và tâm nguyện độ tận pháp giới chúng sanh. Điều này thể hiện qua bốn phẩm kinh sau:

1. Phẩm thứ nhất: “…Trong vô lượng kiếp về trước, ngài Địa Tạng là một vị trưởng giả. Nhờ phước duyên được chiêm ngưỡng, đảnh lễ, được sự chỉ dạy của đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, vị trưởng giả này đã phát đại nguyện: “Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng nó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật đạo”.

2. Cũng trong Phẩm thứ nhất: “…Vào thời quá khứ vô số kiếp trước, thuở đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tiền thân của Ngài là một người nữ dòng dõi Bà-la-môn có nhiều phước đức và oai lực; nhưng mẹ của cô không tin vào nhân quả tội phước, tạo rất nhiều ác nghiệp, sau khi chết bị đọa vào địa ngục. Là người con chí hiếu, cô rất thương nhớ mẹ, đã làm vô lượng điều lành, đem công đức ấy hồi hướng cho mẹ, và cầu nguyện đức Phật cứu giúp. Nhờ các công đức chí thành ấy, đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại đã cho cô biết là mẹ của cô đã được thoát khỏi cảnh địa ngục và vãng sanh về cõi trời. Vô cùng hoan hỉ trước tin ấy, cô đã đối trước đức Phật Giác Hoa phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai, những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát”.

3. Phẩm thứ tư: “…Trong hằng hà sa số kiếp về trước, thuở đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, ngài Địa Tạng là một vị vua rất đức độ, thương dân… nhưng chúng sanh lúc ấy tạo rất nhiều ác nghiệp, vị vua hiền đức này đã phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ, làm cho đều đặng an vui chứng quả Bồ Ðề, thì tôi nguyện chưa chịu thành Phật”.

4. Phẩm thứ tư: “…Vô lượng kiếp về thuở quá khứ, thời đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, ngài Địa Tạng là một hiếu nữ tên Quang Mục có nhiều phước đức. Nhưng mẹ của Quang Mục lại là người tạo vô số ác nghiệp. Khi mạng chung, bà bị đọa vào địa ngục. Quang Mục tạo nhiều công đức hồi hướng cho mẹ, và nhờ phước duyên cúng dường một vị A-la-hán, vị Thánh này đã cho biết rằng, mẹ của cô đã thoát khỏi cảnh địa ngục sanh vào cõi người, nhưng vẫn còn chịu quả báo sinh vào nhà nghèo hèn, hạ tiện, lại bị chết yểu… Vì lòng thương mẹ và chúng sanh, Quang Mục đã đối trước đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai phát nguyện: “Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng sanh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v... Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác”.

Qua bốn lần phát đại nguyện thì trong đó có đến hai lần Địa Tạng Bồ-tát vì hiếu đạo cứu độ mẹ mà phát thệ nguyện. Chính vì thế, tông chỉ bộ kinh này được Hòa thượng Tuyên Hóa tóm tắt trong tám chữ: “Hiếu đạo - Ðộ sanh - Bạt khổ - Báo ân”. Do vậy kinh này cũng được gọi là Hiếu kinh của Phật giáo. Nội dung bộ kinh này, đức Phật thuyết giảng về công hạnh tối thắng của Địa Tạng Bồ-tát qua những tiền kiếp của Ngài, đặc biệt là hiếu hạnh và sự độ sanh của Ngài. Trong kinh Đại thừa, đức Phật đã từng nói: “Tất cả chúng sanh là cha mẹ ta trong quá khứ và là chư Phật ở vị lai”. Với trí tuệ rộng lớn như hư không và lòng từ bi bao la ngập tràn như đại dương vô tận, cộng với lời phát nguyện vĩ đại “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật. Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề.” của Ngài, thì hình ảnh và hạnh nguyện của Ngài đã phần nào phát họa minh chứng câu nói trên của đức Phật.

Ngày nay, hàng Phật tử chúng ta mỗi khi niệm danh hiệu Ngài, nên phải nhớ tưởng đến những công hạnh, thệ nguyện vĩ đại ấy. Chúng ta phải học theo, lấy Ngài làm tấm gương soi sáng cho chúng ta noi theo. Khi gặp chúng sanh nào đang khó khăn, đau khổ, chúng ta phát khởi từ tâm giúp đỡ trong khả năng của mình có thể, làm được như thế thì khi niệm danh hiệu Địa Tạng mới tròn đầy viên mãn công đức, sẽ cảm ứng đạo giao với Ngài.

Nếu như danh hiệu Quán Thế Âm tiêu biểu cho đức tính Từ bi thì danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát tiêu biểu cho hạnh Nhẫn nhục. Vì từ trên ý nghĩa danh hiệu chúng ta thấy được điều này. Địa là đất, cho dù chúng ta đổ nước dơ (bẩn) hay sạch sẽ thì đất vẫn hấp thụ, không một lời khen chê, oán trách, giận hờn. Ngược lại với tấm lòng bao dung rộng lớn của mình, đất còn là nơi dung chứa sự sinh sống, phát triển của các động vật, thực vật. Địa còn có nghĩa là Tâm (tâm tánh). Trong cuộc sống hằng khi Phật tử chúng ta đối người, đối sự, đối vật phải có tâm nhẫn nhục giống như đất, không bị những tiếng khen-chê, được-mất, hơn-thua, đúng-sai, phải-trái, v.v… làm động tâm. Nếu làm được như thế thì mọi công đức, phước đức cũng đều từ tâm này mà sinh ra.

Như phần trên người viết đã đề cập, danh hiệu Phật biểu thị cho tánh đức. Còn danh hiệu Bồ-tát biểu thị sự tu đức. Tánh đức của chúng ta là Từ bi và Thanh tịnh. Khi mê, tánh đức của tự tánh không hiển hiện, chẳng hạn bản tánh của chúng ta là đại từ đại bi, hiện tại chúng ta đối với người, với vật, một chút tâm từ bi cũng không có; tự tánh của chúng ta vốn thanh tịnh, hiện tại một ngày từ sớm đến tối bị nhiễm phải danh văn (danh tiếng), lợi dưỡng (vật thực), ngũ dục (tiền tài, sắc đẹp, địa vị, ăn uống, ngủ nghỉ), lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), nghĩa là mắt thấy sắc đẹp, xấu; tai nghe âm thanh khen, chê; mũi nghe mùi thơm, thối; lưỡi nếm mặn, ngọt; thân xúc chạm êm ấm, mềm dịu, khô cứng. Ngày nay, chúng ta đã quên mất tánh đức từ bi và thanh tịnh của ta vốn sẵn có từ lâu; do đó khi tiếp xúc với ngũ dục liền bị nó làm mê muội, gây ra không biết bao nhiêu là tội. Để rồi luân hồi trong sanh tử triền miên, mất thân thọ thân như bánh xe quay vòng lên cao rồi lại xuống thấp. Vì vậy, niệm danh hiệu Bồ-tát (tu đức) nhằm giúp chúng ta khơi dậy, đánh thức tánh đức của chính mình. Thực hành theo hạnh nguyện của các Ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/02/2018(Xem: 9996)
Đừng bao giờ nản chí, đừng bao giờ tuyệt vọng. Khi Thượng Đế đóng một cánh cửa thì Ngài sẽ mở một cửa khác cho chúng ta đi. Sau đây là chuyện cô bé gốc Việt Đỗ Thị Phương bị cụt cả 2 chân lúc 1 tuổi vì cha mẹ ôm bom tự tử do nghịch cảnh tình yêu, nay trở thành nữ vận động viên Mỹ gốc Việt Haven Shepherd về người khuyết tật trong nhóm đại diện Hoa Kỳ dự Paralympic tại Thế vận hội Mùa đông Olympic 2018 ở Nam Hàn.
20/02/2018(Xem: 7670)
Ai trong chúng ta cũng có mong muốn biến ước mơ thành hiện thực. Có thể bạn đang mơ về một chuyến du xuân nơi vùng núi bao la ngày Tết hay ước mơ có được một cái tết đoàn viên thật đầm ấp và no đủ. Nhưng ở ngoài kia, cũng có những người chỉ mong ước giản dị thôi, … được một lần tắm táp sạch sẽ, rồi cắt tóc, cạo râu.
14/02/2018(Xem: 11029)
Đời người trong khoảng một trăm năm Nghèo khó giàu sang chết cũng nằm Giành giựt bao nhiêu buông xả hết Hơn thua cho lắm chẳng ai thăm Lâu không “biết đủ” đời khốn khổ “Ít muốn” giúp ta ít lỗi lầm Ý nghĩa cuộc đời nên tạo dựng Sẻ chia đạo đức sáng trăng rằm
13/02/2018(Xem: 6415)
Nên lưu ý, đường đời không đơn giản hai chiều như ta tưởng. Cho nên, lúc khởi tâm tu hành đừng mong mọi sự như ý mà cầu cho những gì đến với ta dù sướng hay khổ, đến mau và qua mau. Cái điều mà tôi muốn trình bày ở trên, nó đồng với ý tâm kinh dưới đây nhưng căn tánh thì trái ngược. Như nhiều thiện tri thức đã y tâm kinh giải nghĩa, các Ngài dù có thể hiểu nhưng khó giải cho thấu đáo cho nên càng cố giảng càng thêm tối nghĩa, thiết tưởng tôi không cần phải làm cho nó thêm tối thui như mực nữa? Theo tôi cái phương trình linear mantra này của Tâm kinh còn thiếu nhiều ẩn số. Cái công thức hình học phẳng này chỉ đúng trong không gian 2 chiều. Nó cần phải bổ khuyết cho phù hợp với trí tuệ của thế hệ bây giờ. "Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha."
11/02/2018(Xem: 7131)
Tâm ý cân bằng hay tâm ý bất bình thường có ảnh hưởng rất quan trọng đến sức khỏe con người. Khoa học và y khoa đã chứng minh tâm thần bất an làm bất quân bằng lượng hormones (imbalance hormones) đưa đến tổn thương cho cơ thể. Giải thưởng Nobel về sinh học, Elizabeth H. Blackburn đã cho biết: con người muốn sống lâu trăm tuổi thì ăn uống điều độ chiếm 25%, những yếu tố khác chiếm 25%, nhưng tâm lý cân bằng chiếmtới 50%!
06/02/2018(Xem: 8264)
Trong những thời rất xa xưa, lặng lẽ tu hành trong am vắng góc rừng được khuyến khích. Đó là những thời rất xa xưa… khi Kinh Phật ghi rằng “…đi tới góc rừng, tới gốc cây, hay tới một lều trống, nhà sư ngồi quán chiếu…” Trong thế kỷ của chúng ta, không còn bao nhiêu rừng, không còn bao nhiêu cội cây vắng để có thể tới ngồi. Và khi ngồi ở phố thị, bất kể ở một góc phố Bolsa tại Quận Cam, hay trong Phố Tàu New York, một nhà sư cũng không thể tách rời với những gì bận rộn ồn ào được thấy, được nghe chung quanh. Nghĩa là, không thể tách rời xã hội nổi trong thời này. Đó là chưa kể tới trường hợp, khi mang hạnh nguyện dấn thân phục vụ.
06/02/2018(Xem: 8034)
Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng “trả lương” cho các con Thái Hà Books măng non vì chép và thuộc kinh Vu lan báo hiếu Tôi là một cô gái học trường đại học nông nghiệp, ấy thế mà lại mê sách vô cùng. Tôi rất thích đọc sách và đã xin vào công ty sách Thái Hà thực tập. Để rồi tôi được giữ lại làm việc và đã làm được mấy năm rồi. Hôm nay tôi muốn chia sẻ một câu chuyện hay và thấm đẫm trí tuệ và yêu thương ở công ty chúng tôi. Chuyện này tuy nhỏ nhưng ý nghĩa rất lớn và tác động đến rất nhiều người, kể cả người lớn. Tôi ngồi gõ lại để mong có nhiều cơ quan, nhà trường, doanh nghiệp và gia đình nghiên cứu để học theo. Chuyện là một tháng trước, cả công ty nhận được thông báo qua email của Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Thái Hà Books rằng thầy quyết định “trả lương” cho các con của các bố các mẹ Thái Hà Books chép kinh Vu lan báo hiếu. Thầy Hùng muốn các con chép để hiểu lời kinh, muốn các con hiểu lời dạy của Đức Phật để yêu quý và biết ơn bố mẹ mình. Thầy muốn các con thành
30/01/2018(Xem: 11262)
Kính thưa chư Tôn Đức, chư Pháp hữu và quý vị hảo tâm Từ thiện. Trong tâm niệm hành thiện: '' Phụng sự chúng sanh là thiết thực cúng dường chư Phật '', hôm nay (29 .Jan-2018) chúng tôi vừa thực hiện xong một số giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo vùng núi Khổ Hạnh Lâm , Nalanda & khu vực lân cận Bồ Đề Đạo Tràng, thành Già Da- Gaya tiểu bang Bihar India. Xin chia sẻ cùng quí vị một vài hình ảnh tường trình.
19/01/2018(Xem: 9187)
Vẻ đẹp vừa nên thơ, vừa dân dã của những ngôi làng bập bềnh trên sông nước luôn làm nao lòng khách du lịch. Dưới đây là 10 ngôi làng nổi tuyệt đẹp trên thế giới. 1. Làng Ko Panyi, Thái Lan Ko Panyi là một ngôi làng đánh cá ở tỉnh Phang Nga, Thái Lan. Ngôi làng gồm 200 gia đình sống trong các ngôi nhà được xây trên những cột trụ lớn. Mặc dù lượng khách du lịch tăng đáng kể thời gian gần đây, người dân ở Ko Panyi vẫn sống chủ yếu dựa vào ngành công nghiệp đánh bắt hải sản bởi khách du lịch chỉ đến nhiều vào mùa khô. Đặc biệt, ngôi làng còn có hẳn một sân bóng đá. Bắt đầu từ mùa World Cup 1986, cư dân trong làng đã xây dựng sân bóng từ những mảnh gỗ và bè đánh cá cũ để làm chỗ vui chơi cho lũ trẻ.
18/01/2018(Xem: 11091)
Cậu bé vô gia cư và tấm bằng ĐH Harvard. Chỉ có một bàn tay với 2 ngón tay, Sơn đã bắt đầu hành trình của một đứa trẻ vô gia cư không biết đọc biết viết, rồi trở thành sinh viên trường đại học danh tiếng bậc nhất thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]