Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Danh hiệu thứ ba: Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát

18/09/201215:28(Xem: 9837)
3. Danh hiệu thứ ba: Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

IV. Ý NGHĨA CỦA CÁC DANH HIỆU PHẬT, BỒ-TÁT[2]

IV.3. Danh hiệu thứ ba: NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

Hoặc NAMMÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

Có lẽ danh hiệu của vị Bồ-tát này được nhiều người biết đến nhiều nhất dù người này không biết Phật giáo là gì, chưa từng bước chân đến chùa. Vậy danh hiệu vị Bồ-tát này có ý nghĩa gì?

Đạibi: nghĩa là lòng xót thương bao la rộng lớn. Theo định nghĩa chung "Bi năng bạt khổ", bi có công năng tiêu trừ các khổ não. Hạnh nguyện của đức Quán Thế Âm là cứu độ hết thảy chúng sanh thoát ly ra khỏi tai ách khổ nạn. Lòng thương xót của Ngài rộng lớn bao la như thế nên gọi là đại bi.

Quán: nghĩa là xem xét, quán chiếu. Có nhiều nơi Phật tử thường đọc là “Quan”, theo quan điểm của người viết thì cũng đúng nhưng chưa được chính xác cho lắm vì rằng: “Quan” nghĩa là dùng mắt thường để nhìn, còn “Quán” nghĩa là dùng tâm để nhìn. Có những sự việc tưởng như đơn thuần, đúng đắn, chính xác chúng ta không thể nào dùng mắt thường nhìn được, chỉ có thể dùng tâm để nhìn thì mới có thể chính xác, mới đúng.

Thế: là thế gian

Âm: nghĩa là âm thanh

Bồ-tát: nói đủ theo tiếng Ấn Độ là “Bồ-đề Tát-đỏa”, Tàu dịch: “Giác hữu tình”. Giác, tức là giác ngộ; Hữu tình là chúng sanh. Nghĩa là Bồ-tát đem Phật pháp dạy người, có năng lực khiến cho chúng sanh được tỏ ngộ và ra khỏi biển khổ.

Quán Thế Âm nghĩa là Ngài nghe tiếng kêu thầm kín thiết tha từ tâm khảm chúng sanh trong thế gian mà đến cứu khổ. Ngài đem an lạc từ bi tâm vô lượng không phân biệt đến với mọi loài, nói cách khác là tình yêu thương trìu mến vô biên gấp muôn vạn lòng dạ của bà mẹ hiền ở thế gian đối với đứa con thơ. Nên gọi là Từ mẫu Quán Thế Âm.

Ngoài ra, chúng ta còn thấy trên tay ngài Quán Thế Âm Bồ-tát cầm tịnh bình và nhành dương liễu, đầu đội mũ gắn hình tượng Phật A-di-đà. Ý nghĩa là: Tay phải Ngài cầm cành dương liễu là tượng trưng cho đức tánh nhẫn nhục. Tay trái cầm tịnh bình (bình thanh tịnh) đựng nước cam lồ, tượng trưng cho tâm từ bi. Chỉ có cành dương liễu mới có khả năng mang nước cam lồ rưới mát chúng sanh. Dương liễu là loại cây vừa dẻo vừa mềm, gặp gió mạnh thì uốn mình theo chiều gió, gió dừng là trở về vị trí cũ. Nếu cứng như cành cây lim, cây gỗ khác thì gió không thể lay, một khi bị gió lay là phải gãy. Nếu yếu như cành liễu thì chỉ buông rũ theo chiều gió. Cứng quá, mềm quá đều không có sức chịu đựng lâu dài. Nước cam lồ là thứ nước rất trong, mát và thơm ngọt, do hứng ngoài sương mà được. “Cam” nghĩa là ngọt. “Lồ” đọc trại chữ lộ, tức là sương hay móc. Khi người ta bị nóng bức khô khan, nếu được một giọt nước cam lồ thấm vào, cổ sẽ nghe ngọt ngào mát rượi. Nước cam lồ tượng trưng cho lòng từ bi của Bồ-tát. Khi chúng sanh bị lửa phiền não thiêu đốt, thiết tha cầu cứu nơi Bồ-tát, Ngài sẽ mang nước từ bi đến dập tắt và đem lại cho người sự mát mẻ an lành. Vì vậy Bồ-tát dùng cành dương rưới nước cam lồ, biểu trưng cho lòng nhẫn nhục nhu nhuyến. Thiếu cành dương, không rưới nước cam lồ được. Cũng vậy, có lòng từ bi mà thiếu đức nhẫn nhục thì lòng từ bi đó không lâu dài, không đem đến lợi ích cho chúng sanh được. Cho nên đức nhẫn nhục, lòng từ bi luôn đi đôi với nhau, thiếu một đức thì đức kia không thể thực hiện.

Đầu Ngài đội mũ có hình tượng Phật A-di-đà, dụng ý rằng: “Ngài là vị Đẳng giác Bồ-tát mà còn phải thời thời khắc khắc nhớ Phật, niệm Phật”. Hình tượng này nhằm nhắc nhở, khuyến tấn hàng phàm phu chúng ta trong thời thời khắc khắc thường tỉnh thức nhớ Phật, niệm Phật, đừng để tâm phóng dật, buông lung sẽ tạo nghiệp. Trong tất cả các vị Bồ-tát, có lẽ Bồ-tát Quán Thế Âm là gần gũi, thân thiết với mọi người, được nhiều người biết đến nhiều nhất, có câu “Gia gia Quán Thế Âm. Hộ hộ Di Đà Phật”. Mỗi khi gặp chuyện đau khổ hay nguy nan, trong tâm của mọi người chúng ta thường nghĩ ngay đến danh hiệu của Ngài, cầu nguyện Ngài giúp đỡ, do chính những công hạnh và hạnh nguyện của Quán Thế Âm Bồ-tát phát nguyện khi tu đạo. Thái Hư đại sư khi luận về Kinh Pháp Hoacó nói đến hạnh nguyện cứu khổ của Bồ-tát Quán Thế Âm như sau: “Đức Quán Thế Âm tìm nghe tiếng cầu cứu thống khổ của tất cả chúng sanh khắp mọi nơi, mọi chốn, liền ngay khi đó đến mà cứu độ. Quả vị lợi tha vô lượng vô biên của Ngài luôn luôn hướng về chúng sanh và làm những việc lợi ích cho họ. Bồ-tát thị hiện đầy đủ ba thân, đó là Thắng ứng thân, Liệt ứng thân, Tha thọ dụng thân, nên mới đủ diệu dụng độ khắp chúng sanh trong pháp giới”.

Trong kinh Đại thừa phẩm Phổ Môn, chúng ta thấy Ngài thường thị hiện 32 ứng hóa thân để tùy duyên ứng giáo hóa chúng sanh. Nơi nào chúng sanh có “cảm”, Ngài liền “ứng”. Cảm-ứng bất khả tư nghì. Chúng ta thấy hiện nay có rất nhiều người niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, nhưng có người niệm linh nghiệm, còn có người niệm không cảm ứng, phải chăng Bồ-tát có sự thiên vị?

quantheambotat434641

NamMô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát - ảnh minh họa

Xin thưa, không phải Bồ-tát thiên vị, thương, giúp đỡ người này, còn người khác thì không thương, không giúp đỡ. Lòng đại từ đại bi của Bồ-tát là “vô ngã vị tha”, lòng từ bi bình đẳng, không phân biệt ví như “nơi nào có sông, hồ, ao, rạch thì nơi ấy có bóng trăng hiện hữu”.

Xin lấy ví dụ: Quán Thế Âm Bồ-tát giống như tổng đài phát ra làn sóng âm thanh hay phát ra hình ảnh. Sự phát đi, dĩ nhiên luôn luôn thường trực (ví dụ cho tầm thanh cứu khổ) còn chúng sanh như những máy thu thanh, thu hình, máy mở đúng làn sóng, đúng vi ba của tín hiệu, tất nhiên thấy hình, nghe tiếng (ví dụ cho lòng chí thành và giao cảm).

Dù cho muôn ngàn triệu chiếc máy (vô số chúng sanh) cùng một lúc bắt đúng tín hiệu thì tất nhiên muôn ngàn triệu chiếc máy, cùng một giờ phút mà cùng có âm thanh và hình ảnh (ví dụ cho cùng niệm và cùng được sự thị hiện nhiệm mầu). Cũng như thế, tất cả mọi loài chúng sanh, nếu cùng chí thành hướng về đức Quán Thế Âm Bồ-tát tức Ngài cùng hiển hiện ngay liền khi đó.

Đại sư Chương Gia, một trong ba vị thầy của pháp sư Tịnh Không nói: “Chúng sanh niệm danh hiệu Phật, Bồ-tát mà không thấy cảm ứng, linh nghiệm là do bởi nghiệp chướng của chúng ta nhiều. Chúng là ranh giới làm ngăn cách sự cảmứng giữa ta và Phật, Bồ-tát. Cách tốt nhất là phải sám hối tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình”.

Bồ-tát Quán Thế Âm là hiện thân của đức Từ bi. Tình thương chân thành tha thiết nhất trong con người, không tình thương nào qua tình mẹ thương con. Mẹ đối với con là tình thương chân thành thâm thúy bao la, khó lấy cái gì có thể hình dung được. Cho nên, đức Quán Thế Âm hiện thân là người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sanh. Người mẹ hiền của tất cả chúng sanh, người mẹ lúc nào cũng lắng nghe tiếng nức nở từ cõi lòng của đàn con dại đang đắm chìm trong bể khổ mênh mông, để đến xoa dịu, cứu thoát khiến mọi khổ não đều được tiêu tan. Nên chúng ta thấy Bồ-tát Quán Thế Âm thường hiện thân người nữ. Nhưng theo trong kinh Vô Lượng Thọ,phẩm thứ 6, lời nguyện thứ 22 của đức Phật A-di-đà là “Khi con thành Phật, nước con không có phụ nữ”. Hiện tại, ta thấy Ngài thường ở cõi Tây phương Cực Lạc để giúp đức Phật A-di-đà giáo hóa, tiếp dẫn người vãng sanh. Tương lai, Ngài cũng thành Phật hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai. Thật ra trong kinh Đại Nhậtvà kinh Bi Hoa, đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni nói: “Quán Thế Âm Bồ-tát trong vô lượng quá khứ về trước đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai”. Nhưng vì bi nguyện độ sanh mà Ngài thị hiện làm thân Bồ-tát, nhằm giúp đỡ các đức Phật trong mười phương giáo hóa chúng sanh, cứu khổ ban vui.

Chúng ta thấy Từ bi và nhẫn nhục là hai đức tính tiêu biểu của Bồ-tát Quán Thế Âm. Trong cuộc sống hằng ngày, là Phật tử chúng ta phải biết có lòng từ bi (yêu thương, chia sẻ, cảm thông) đối với mọi người xung quanh. Khi gặp chuyện không như ý, buồn phiền, bản thân chúng ta phải biết nhẫn nhục. Làm được hai điều này nghĩa là chúng ta đã thực hiện theo hạnh nguyện của Ngài, khi đó chúng ta phát tâm niệm lên một câu danh hiệu Ngài sẽ cảm ứng đạo giao. Khi trong tâm còn sự hiện hữu của tính bỏn sẻn, tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn v.v… thì dù cho chúng ta có niệm danh hiệu Ngài nhiều bao nhiêu đi nữa cũng sẽ không linh nghiệm, không cảm ứng. Chỉ là “đau mồm rát họng cũng uổng công” vì đã làm trái bổn nguyện độ sanh của Ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2010(Xem: 9814)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
03/10/2010(Xem: 9533)
Hiện tướng bản thể vũ trụ là một trò chơi vừa có tính thực và bất thực, hay vừa có tính hòa âm và bất hòa âm. Nếu người biết được trò chơi này, là người nắm được thực tại trên mườiđầu ngón tay; thì trái lại, kẻ không nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay,kẻ đó không biết được hòa âm vũ trụ trong trò chơi này. Nói thế không có nghĩalà bản thể vũ trụ ở trong tình trạng phân sáp làm đôi vàđối lập nhau; nhưng nóchỉ là một.
03/10/2010(Xem: 8084)
Đạo Phật không dừng lại ở nơi tối tăm mà luôn dùng ánh sáng trí tuệ để chuyển hóa si mê, u tối thành trong sáng, hiện thực. Trên đời này không gì quý bằng an vui và hạnh phúc. Vàng bạc, gấm vóc, lụa là, thức ăn sơn hào hải vị, vũ khí tối tân chỉ làm con người tăng trưởng thêm lòng tham lam, ích kỷ, sân si, nóng giận và giết hại lẫn nhau; càng nhiều mưu cầu, tham đắm riêng tư thì càng thêm khổ đau chồng chất, chỉ cần muốn ít biết đủ theo khả năng hiện tại thì nghèo khó vẫn an vui, hạnh phúc. Trớ trêu thay, thế gian này không biết bao nhà tỉ phú đã phải bỏ mạng sa trường vì hụt hẫng bên bờ hạnh phúc, họ cứ mải mê chạy theo trường đời danh lợi, quyền cao chức trọng để rồi phải ra đi trong tủi hận ưu phiền.
02/10/2010(Xem: 17936)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
02/10/2010(Xem: 9737)
Có lẽ ai cũng biết rằng tử vi bói toán là một khoa giải đoán tương lai đời người về vận mạng, tình duyên, gia đạo, học hành thi cử, thời vận thịnh suy, tốt xấu và chọn hướng nhà đất thích hợp, bao gồm cả việc so đôi tuổi và hóa giải sự xung khắc vợ chồng, chọn ngày giờ tốt để khai trương, cưới hỏi, cùng là giải hạn xấu, dựa theo một vài yếu tố như ngày, giờ, tháng, năm sinh của người xin coi bói toán... Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
01/10/2010(Xem: 10832)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
01/10/2010(Xem: 8201)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
30/09/2010(Xem: 8087)
Ni Sư Tenzin Palmo là đối tượng của quyển sách “Trong Động Tuyết Sơn” của Vicki Mackenzie thuật lại tiểu sử của Ni Sư Palmo và mười hai năm trong ẩn thất cô tịch của bà. Năm ngoái, bà đã gặp gỡ những người tham dự khóa nhập thất Lamrim (1) của Tushita Dharamsala và những hành giả khác tại Tu viện Tashi Jong bên ngoài Dharamsala, Bắc Ấn Độ. Bài viết dưới đây thuật lại cuộc trò chuyện của họ.
30/09/2010(Xem: 8450)
Về đức tin trong đạo Phật, người ta có thể đặt câu hỏi : - Có đức tin hay không trong đạo Phật ? Hay nói một cách khác : đạo Phật có cần đến đức tin hay không ? - Nếu có, đức tin trong đạo Phật có khác gì với đức tin trong các tôn giáo khác không ? - Nếu khác, đức tin này có những đặc điểm gì ? - Và cuối cùng, có những khác biệt gì về đức tin giữa các tông phái Phật giáo, giữa đạo Phật nguồn gốc, Nguyên Thủy và Đại Thừa, giữa Thiền, Tịnh Độ và Mật tông ? Thiết tưởng việc đầu tiên là định nghĩa đức tin và các loại đức tin.
30/09/2010(Xem: 12033)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]