Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Danh hiệu thứ nhất: Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật

18/09/201215:28(Xem: 9201)
1. Danh hiệu thứ nhất: Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

IV. Ý NGHĨA CỦA CÁC DANH HIỆU PHẬT, BỒ-TÁT[2]

Như phần trên, người viết đã đề cập, Phật giáo không phải là một Tôn giáo như nhiều người hiểu một cách thông thường mà “Phật giáo là một nền giáo dục thực tiễn, như trường học giáo dục con người, thiết thực trong đời sống hằng ngày”. Do đó những danh hiệu Phật, Bồ-tát đều là những danh hiệu, danh từ biểu pháp tượng trưng cho môn học nhằm giáo dục, giáo học răn dạy chúng ta trên bước đường tu nhân học Phật. Ngay cả những vật phẩm dùng để cúng kiếng (như bông, trái cây, đèn, nước, nhang, áo dài lam…) cũng vậy. Khi đối người, đối sự, đối vật, chúng ta phải biết áp dụng những danh hiệu Phật, Bồ-tát, những vật được thờ cúng vào đời sống hằng ngày. Chính vì thế, chúng ta là Phật tử cần phải hiểu biết hết ý nghĩa hết các danh hiệu của các Ngài và những vật được thờ cúng. Chúng ta đang sống trong thời kỳ hóa độ của đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Do đó chúng ta cần tìm hiểu sơ lược ý nghĩa danh hiệu của Ngài.

IV.1. Danh hiệu thứ nhất: NAM-MÔ BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT

Giải thích danh hiệu:

Nam-môcó 6 ý nghĩa sau: kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng. Trong đó từ kính lễ, quy y và qui mạng là ba từ thường dùng nhất.

Bổn sư: Bổnnghĩa là căn nguyên, đầu tiên, cội nguồn. nghĩa là thầy dạy học.

Thích-ca(Sakya): là tiếng Phạn, Tàu dịch là Năng Nhơn: Năng là năng lực, Nhơn là từ bi, nghĩa là nhân từ.

Mâu-ni(Muni) nghĩa là Tịch Mặc: Tịch là yên lặng, không bị khổ vui làm động tâm. Mặc là lặng lẽ, không bị phiền não khuấy rối, độ mình độ người, công đức đầy đủ. Tịch Mặc được hiểu là thanh tịnh.

Phật: dịch là Giác hoặc Trí. Nói cho đúng tiếng Phạn là Buddha (Phật-đà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giác Giả (bậc đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn). Giác có ba bậc:

- Tự giác: Nghĩa là tự giác ngộ hoàn toàn do phước huệ và công phu tu hành, khác với phàm phu là những người còn mê muội, bị luân hồi trong cõi trần lao, khổ ải.

- Giác tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem phương pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ như mình. Người tu theo Tiểu Thừa không thể có được giác tha, vì chỉ lo giải thoát cho mình. Chỉ người tu theo Ðại Thừa mới có được giác tha, nghĩa là giác ngộ cho hết thảy chúng sanh đang chìm đắm.

- Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn đầy đủ cho mình và cho người. Những bậc Bồ-tát, tuy đã giác ngộ cho mình và cho người, nhưng công hạnh chưa viên mãn, nên chưa gọi được là “Giác hạnh viên mãn”. Chỉ có Phật mới được gọi là Giác Hạnh Viên Mãn.

Chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đã tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, chứ không phải là một danh từ riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu hành được chứng quả như đã nói trên đều được gọi là Phật cả.

Do đây mà biết nhân từcùng thanh tịnhlà đức năng vốn đầy đủ trong tự tánh của chúng ta. Danh từ này, nhà Nho gọi là “nhân chi sơ tánh bổn thiện”, nhà Phật gọi là “Phật tánh”. Khi bước chân đến chùa đối diện hình tượng Ngài, niệm danh hiệu Ngài, lễ lạy Ngài, chúng ta phải tự hỏi lại bản thân của mình xem đã làm được một phần nhỏ hạnh nguyện nào giống với Ngài chưa? Khi đối người, đối sự, đối vật, chúng ta có dùng lòng từ bi không? Đối với bản thân mình có thanh tịnh không? Có bị tám thứ gió (khen, chê, lợi, suy, vui, khổ, vinh, nhục) làm tâm bất an xao động không? Nếu không, tức là thanh tịnh đối với bản thân của mình.

Dân gian Việt Nam có câu: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Phật tử được hiểu là con Phật. Ngày nay chúng ta đang bước trên con đường đạo, con đường mà khi xưa đức Từ phụ Thích-ca Mâu-ni đã đi qua, đạt ngôi vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Phật quả). Vậy trước khi thành Phật, Ngài tu những công hạnh, hạnh nguyện gì? Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Đề-bà Đạt-đathứ 12 ghi: “…Trí-Tích Bồ-Tát nói rằng: Tôi thấy đức Thích-Ca Như Lai ở trong vô lượng kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ-đề chưa từng có lúc thôi dứt. Ta xem trong cõi tam-thiên đại-thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hạt cải nào mà không phải là chỗ của Bồ-Tát bỏ thân mạng để vì lợi ích chúng sanh. Vậy sau mới được thành đạo Bồ-đề”. Công đức và hạnh nguyện của Ngài, thì vô lượng kiếp chúng ta cũng không thể nào nói cho hết được. Ở đây, người viết xin dẫn ra hai mẫu chuyện tiêu biểu cho đức tính Từ bi và Thanh tịnh như ý nghĩa danh hiệu của Ngài, để chúng ta học tập theo tấm gương của Ngài.

  • Hạnh từ bi của đức Phật:

LÓC THỊT THẾ CHIM BỒ CÂU[3]

Vào đời quá khứ, có vua Thi-tỳ cai trị một nước rộng lớn, giàu vui, đông đúc. Nhà vua rất thương dân, dân cũng rất mến nhà vua.

Một hôm, nhà vua soi gương thấy trên đầu đã có vài ba sợi tóc bạc. Vua là người có trí, ý thức được vô thường sanh diệt, nên nhường ngôi cho con rồi lên núi tu thiền cầu giải thoát sanh tử, cứu độ chúng sanh.

Đế-thích có thiên nhãn nên biết nhà vua tu thiền định, không biết ý của vua muốn cầu làm Phạm-thiên hay Đế-thích không…, liền bàn với một thiên quan. Thiên quan nói: “Nếu Đế-thích muốn biết thì phải thử”.

Thế rồi Đế-thích hóa làm chim ó. Thiên quan hóa làm chim bồ câu. Chim ó rượt chim bồ câu, chim bồ câu chạy vào lòng nhà vua cầu xin cứu mạng. Chim ó đến đòi chim bồ câu, vua Thi-tỳ không trả.

Chim ó nói: “Chim bồ câu là thức ăn của tôi. Ngài cứu nó nhưng để tôi chết đói thì đâu có gọi là từ bi”.

Nhà vua nói: “Ta sẽ lóc thịt của ta tế cho nhà ngươi”.

Chim Ó nói: “Muốn cho công bình thì thịt Ngài phải cân bằng thịt bồ câu”. Vua đồng ý.

Khi cân, để chim bồ câu một bên, thịt nhà vua một bên, nhưng lạ lùng thay, bao nhiêu thịt vẫn nhẹ hơn chim bồ câu. Cuối cùng, nhà vua định bước lên cân nhưng yếu sức, té xỉu.

Lúc đó, trời Đế-thích và thiên quan hiện nguyên hình và nói với nhà vua: “Ngài tu từ bi khổ hạnh như vậy, mục đích muốn cầu quả vị gì? Cầu làm Phạm Thiên, Đế-thích, hay Chuyển luân thánh vương?”. Nhà vua trả lời: “Tôi tu hành, không cầu làm Phạm Thiên, Đế-thích hay Chuyển luân vương, mà mục đích cầu thành Phật để hóa độ chúng sanh”.

THICH_CA_MAU_NI_PHAT

NamMô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - ảnh minh họa

Đế-thích nói: “Thân Ngài hiện nay đau đớn, Ngài có hối hận không?”

Nhà vua nói: “Tôi không hối hận”.

Đế-thích nói: “Làm sao biết Ngài không hối hận?”

Vua Thi-tỳ lập thệ rằng: “Xin mười phương chư Phật chứng minh. Nếu trong tâm tôi không có hối hận, thì xin cho thân thể tôi bình phục lại như cũ”. Lạ lùng thay, vua vừa phát nguyện xong thì thân bình phục lại như cũ.

Thiên Đế-thích ca ngợi tán dương và nói: “Ngài chắc chắn sẽ thành Phật,” rồi lễ bái và biến mất.

Phật kết luận: Vua Thi-tỳ là tiền thân của ta. Vì xưa kia do lòng từ bi bố thí cả thân mạng cho chim ó nên mau thành Phật, chứng quả như hôm nay”.

  • Hạnh thanh tịnh của đức Phật:

HẠNH NHẪN NHỤC[4]

Có một câu chuyện rất nổi tiếng từ tạng kinh Phật giáo minh chứng cho ta thấy sự khéo léo của Đức Phật khi đối phó với sân hận. Ngày nọ, một người Bà-la-môn, thuộc dòng quý tộc và thế lực, đến gặp đức Phật. Vị Bà-la-môn này tánh khí nóng nảy, thường cãi cọ với mọi người. Ngay chính như khi người khác bị hại mà không tỏ vẻ giận dữ, ông cũng không bằng lòng. Vì thế, khi ông nghe rằng đức Phật chẳng bao giờ nổi giận, ông quyết định đến thử Ngài.

Người Bà-la-môn đi đến gặp đức Phật và tuôn ra những tràng chửi rủa, mắng nhiếc. Đức Phật lắng nghe một cách bình tĩnh trong im lặng. Vị Bà-la-môn chửi rủa từ sáng cho đến chiều, cuối cùng ngưng chửi và chờ đợi phản ứng của đức Phật. Lúc đó, đức Phật bình tĩnh hỏi ông: “Ông có gia đình hay bạn bè không?”.

“Dĩ nhiên rồi”, Bà-la-môn trả lời. “Tại sao?”.

- “Ông có thăm viếng họ thường xuyên không?”, Đức Phật hỏi.

- “Có,” người Bà-la-môn trả lời cộc cằn.

- “Khi đi thăm họ, ông có mang quà theo không?”.

- “Dĩ nhiên là tôi có!”, vị Bà-la-môn gầm lên.

- “Nhưng nếu họ không nhận quà của ông thì sao?”, Đức Phật hỏi. “Ông sẽ làm gì với món quà đó?”

- “Tôi sẽ mang nó về nhà và chia sẻ với gia đình tôi” người Bà-la-môn trả lời.

- Nay ông đã mang cho tôi một món quà của những lời sỉ nhục giận dữ. Tôi không muốn nhận chúng, tôi xin trả lại cho ông. Hãy mang về nhà và chia sẻ với gia đình”.

Vị Bà-la-môn nghe Phật nói xong, biết mình đã thua cuộc, yên lặng lui ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/12/2022(Xem: 3030)
Loạt bài "Tiếng Việt từ TK 17" đã đề cập đến một số cách dùng Hán Việt đặc biệt như sinh thì (~qua đời, chết), Kinh Tại Thiên, Kinh Tin Kính, Kinh Thiên Chúa, lịch sự, thượng hoà hạ mục, thượng phụ, trung phụ, hạ phụ, thượng đế, thiên chủ/chúa2 ...v.v…Phần 37 này bàn thêm về cách dùng một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes đến truyền đạo: sự (~thờ) 事, thửa (~ sở) 所, kì 其, giao cảm 交感, tinh thần 星晨, đang/đương thì 當時, củ thủ 糾手, thiểu ngữ 少語. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&
25/11/2022(Xem: 3199)
Lời mở đầu của người chuyển ngữ Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định một vị tỳ-kheo trong Tăng đoàn thực thi các phép lạ để thu phục được nhiều người hơn. Thế nhưng Đức Phật khẳng định là Ngài không hề dạy các tỳ-kheo của mình làm phép lạ, mà chỉ giảng dạy họ phải làm thế nào để biến mình từ một con người bình dị trở thành một con người cao quý hơn, đưa mình đến sự Giải thoát cuối cùng và sự Giác ngộ tối thượng. Sự giảng và học hỏi đó tự nó cũng đã là một phép lạ. Đấy là nội dung của toàn bộ bài kinh, và cũng là "kim chỉ nam" giúp chúng ta theo dõi bài kinh rất phong phú, khúc triết, nhưng cũng rất phức tạp này.
25/11/2022(Xem: 6877)
Hành Hương Thắp Sáng Tâm Đăng và Cảm niệm Thâm Ân Đức Thế Tôn VỊ THẦY VĨ ĐẠI BẬC NHẤT CỦA NHÂN LOẠI. Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, Thái Tử Siddhārtha Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng xe cát - vì không giải mã được hố thẳm của lòng người (nguyên nhân của khổ uẩn). Với ý chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho kiếp nhân sinh.
22/10/2022(Xem: 4215)
Chia sẻ hình ảnh của Khóa tu nhân Lễ Vía Đức Bồ Tát Quan Âm tại Chùa Pháp Hoa Seattle Washington State do Ni Sư Thích Hạnh Nguyện và chư Đạo hữu Tịnh Thanh, Trí Tín tổ chức. Xin thành tâm cảm niệm tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni, chư thiện hữu, Phật tử đã nhiệt tâm hỗ trợ cho Khóa tu được thành tựu viên mãn và giai đại hoan hỷ...
12/10/2022(Xem: 2708)
Xin có lời tâm sự, rằng trong lòng tôi vẫn luôn luôn là một đứa trẻ rất mực ngây thơ, nghĩa là, chưa bao giờ lớn cả. Nói cho đúng, tôi đã lớn dậy giữa rừng văn học cổ tích quê nhà, đã say mê đọc truyện cổ về những vị Bụt bay tới khi có ai đó gặp nạn và ngồi than khóc, đã miệt mài với những thần thoại tuyệt vời trong Kinh Phật… Và rồi, tôi tin rằng Đức Phật không bao giờ rời bỏ chúng sinh.
30/09/2022(Xem: 4774)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính quý thiện hữu ''Sứ giả Từ Bi'' Đạo Tràng Kim Đài - CA Xin tường trình cùng Đại chúng. Tánh Tuệ vừa hoàn tất 8 giếng nước do quí Thiện hữu bố thí cho dân nghèo xứ Phật và vẫn Continue hoàn tất những giếng nước khác do quí thiện hữu phat tâm.
25/09/2022(Xem: 6906)
Thấm thoát đã đến Giỗ Trăm Ngày Cố Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Hoa Khai danh Không Ngại Thân mẫu Trụ Trì tại Quan Âm
21/09/2022(Xem: 4051)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Chân Tâm chính là gia bảo Tâm, chẳng lẽ không quý trọng hơn tiền tài, vật chất sao? Bởi không có tâm thì ai đặt lên vật chất những giá trị? Tâm là bà mẹ sinh ra những đứa con (vật chất), nhưng phần nhiều con người ta thà vì tiền tài danh lợi mà phụ rẫy bản tâm, mà khiến cho tâm tổn thương chảy máu. - Quả báo của tất cả hạnh phúc, xuất phát từ Tâm. Sự trừng phạt của tất cả khổ đau, cũng bắt nguồn từ Tâm.
20/09/2022(Xem: 7793)
Kinh Tiểu Bộ Diễn Nghĩa Kệ Bāhiya Sutta (Thể song thất lục song bát) * Lê Huy Trứ
20/09/2022(Xem: 3633)
"Bài kinh giảng cho Girimānanda" / Girimānanda Sutta (AN 10.60) là một bài kinh ngắn nhưng thuyết giảng về một phép luyện tập thiền định thật quan trọng, thiết thực và cụ thể, giúp người đau ốm mượn hơi thở để trở về với chính mình, làm lắng dịu các sự đau đớn trên thân thể và mọi lo lắng trong tâm thần. Ở các cấp bậc lắng sâu hơn, phép luyện tập này cũng có thể làm cho căn bệnh hoàn toàn chấm dứt, mang lại một niềm hân hoan và thanh thoát thật sâu xa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]