Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Đoạn trừ sanh tử chơn thật phú quý

13/04/201203:21(Xem: 11037)
13. Đoạn trừ sanh tử chơn thật phú quý

NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

 

Đoạn trừ sanh tử chơn thật phú quý

Người học Phật cần có chánh tâm, chánh trí để nhìn thấy mọi sự việc đang xảy ra chung quanh cuộc sống hàng ngày, trong đó có vấn đề tu tập. Không có chánh kiến thì ta sẽ nhìn sai vấn đề và không đạt được chân thật lợi ích của sự tu tập. Người học Phật, niệm Phật cầu vãng sanh không đồng với người thế tục mà hành động, mong cầu: thăng quan tiến chức, tiền của đầy nhà, vợ đẹp con ngoan… mà mục đích của người học Phật là mong cầu giải thoát. Nếu học Phật, niệm Phật mà chỉ mong cầu thăng quan phát tài thì có khác chi người thế tục, ngoại đạo. Người học Phật, niệm Phật không phải chỉ để cầu những thứ tiền bạc danh vọng tạm bợ thế gian thường tình mà chỉ mong cầu chơn thật phú quý, thứ phú quý không mang lại cho chúng sanh một sự ưu phiền khổ lụy, mà, nó có khả năng làm cho chúng sanh luôn luôn vĩnh hằng trong hạnh phúc.

Những thứ phú quý thường thấy ở thế gian là cội nguồn của sanh tử, là bức tường ngăn cản đạo quả giải thoát. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, chương thứ mười hai dạy rằng: “phú quý học đạo nan…” . Phú tức gồm có những thứ tài sản của cải, quý ấy là danh vọng; danh vọng và tiền tài là hai món ngũ dục mà người tu cần nên bỏ. Người càng nhiều danh vọng tiền bạc thì sẽ bị những ác duyên ấy cột chặt, muốn tu học, niệm Phật cầu vãng sanh thì là một điều rất khó. Đời người chủ yếu là thân thể tráng kiện, tinh thần minh mẫn, sinh hoạt hằng ngày về vật chất tạm đủ thế là tốt mà cũng thuận tiện cho công việc tu trì.

Hiện tại chúng ta đang sống tại thành phố Perth ở Úc Đại Lợi, cuộc sống vật chất gọi là đủ, mong rằng quý vị biết đủ mà không có lòng mong cầu quá nhiều trong sự tranh danh đoạt lợi để sẽ bị chướng ngại trên đường tu niệm. Nếu lòng mong cầu tài lợi quá nhiều thì khó mà thành tựu được đạo nghiệp, khó mà niệm Phật dứt hết phan duyên để cầu sanh cảnh Cực Lạc.

Chúng ta hãy nhìn, phần nhiều những người giàu có trên thế giới tuy có chút ít phước đức hữu lậu kiếp trước nay được làm người giàu sang, có địa vị; nhưng hiện đời thì lại tạo nhiều điều tội ác: không việc gì làm giàu nhanh bằng buôn lậu bạch phiến, vũ khí.. mà những thứ này lại là những điều tội ác vô cùng cực; cho đến những kẻ trốn thuế, lường gạt, bóc lột công nhân… có như vậy thì họ mới mong kiếm được nhiều tiền; và sự thanh toán nhau bằng xương máu mới mong giành được một chút ít địa vị trong xã hội. Ít ai trên thế giới này kiếm ra được nhiều tiền bằng một tấm lòng lương thiện. Ngay cả những người được xem là mô phạm cho quần chúng; nhưng họ cũng xây dựng tiền tài danh vọng bằng sự lường đảo cướp giựt có hệ thống từ công lao của nhiều người khác đóng góp hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp. Phú quý rồi mà có tấm lòng lương thiện giúp đỡ người nghèo khổ thì lại có mấy ai. Càng giàu thì họ càng muốn giàu thêm, địa vị càng cao thì họ lại muốn cao hơn nên không từ nan những thủ đoạn hạ tiện thấp hè, tội ác mà bám lấy và xây dựng địa vị của mình. Cho nên nói phú quý mê trong tiền bạc, danh vọng mà quên mất đạo nghiệp; vì lẽ đó Phật dạy người tu không nên mong cầu phước đức hữu lậu ở thế gian mà đi vào vòng sanh tử đau khổ.

Mấy ai đang ở trong cảnh phú quý mà vượt được ra ngoài sự đam mê của ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy; kẻ đam mê ngũ dục là đang gây nhân hạnh của cảnh giới ác đạo. Vì lẽ đó nên muôn ngàn lần lưu ý những ai đang niệm Phật cầu vãng sanh không nên để tâm mong cầu danh lợi ở thế gian.

Phật Pháp khuyên ta tu lục độ vạn hạnh, hành hạnh bồ tát là “Phú”; liễu sanh thoát tử chứng nhập đại Niết Bàn là “Quý”. Phàm phu quay cuồng trong lục đạo luân hồi sanh sanh tử tử, nay nhận thức được tự tâm, thấy được lẽ sống chết, chứng A La Hán, ra ngoài tam giới gọi là đoạn sanh tử trong lục đao. A La Hán phát Bồ Đề tâm thực hành Bồ Tát đạo, nhìn thấy các pháp như huyễn, rời pháp chấp, phá từng phần vô minh chứng từng phần pháp thân, viên thành phật đạo, gọi là đoạn trừ biến dịch sanh tử. Thành tựu được như vậy gọi là giải thoát nhị chủng sanh tử; đây mới thật là đạt được chân thật “Phú Quý”.

Chư phật được tôn xưng là bậc tối thượng, là thầy của người trời vì đã thật sự đầy đủ chân thật phú quý. Vì chư Phật và Bồ Tát có đầy đủ chân thật phú quý nên mang cho chúng sanh cùng khắp mười phương thế giới mà không sợ vơi hết. Không phải như những thứ phú quý tạm bợ ở thế gian cho đi thì người ta sợ hết, cho nên họ có tham tâm muốn cất giữ, mà càng cất giữ thì càng mang nhiều sự đau khổ.

Chúng ta là người học phật, niệm Phật cầu vãng sanh thì nên noi theo chư Phật và Bồ Tát mà mong cầu chân thật phú quý xuất thế, mới thật sự là chơn chánh Phật tử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5389)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4396)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5264)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5496)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8611)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6482)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6213)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4527)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9536)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5975)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]