Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Sự tích Đức Chuẩn Đề

03/04/201210:56(Xem: 8449)
08. Sự tích Đức Chuẩn Đề
SỰ TÍCH PHẬT A-DI-ĐÀ VÀ BẢY VỊ BỒ TÁT
Phật học tạp chí Từ Bi Âm (200-204)
Thanh Tâm sưu tầm và đánh máy


SỰ TÍCH ĐỨC CHUẨN ĐỀ

Đức Chuẩn Đề vốn là Thất Cu Chi Phật Mẫu.

Ngài thường thuyết Kinh Đà La Ni, nguyện cầu cho tất cả trong Thế gian và Xuất thế gian đều thành tựu những sự nghiệp tu tập.

Vì tấm lòng từ bi vô hạn của Ngài với quần sanh như mẹ thương yêu đám con khờ, nên kêu là “Phật mẫu”.

Ngài thường diễn nói rằng: Chơn như thiệt tướng và tánh chơn thường của tất cả chúng sanh xưa nay đều sẳn có trong bản giác chư Phật vậy, nên trong đó gồm đủ các đức dụng khắp cõi Hà sa.

Nhưng ngặt vì cứ hủy báng chánh pháp, chẳng tin lời của Phật, tự mình tổn cho mình, nên phải trầm luân đọa lạc, dẫu cho ngàn vị Phật ra đời cũng khó mà cứu chữa đặng.

Ngài thấy vậy nên mới sanh lòng từ mẫn, lập pháp môn phương tiện mà điều phục các việc trần cấu của người sơ cơ nhập đạo, và muốn đồng với Chư Phật một nguồn giác, để dứt chỗ “vọng” mà quy về nơi “chơn”.

Nay xin tuyên dương bửu tượng của Đức Chuẩn Đề ra đây, đặng cho những người mộ đạo chiêm ngưỡng và lễ bái, thì được phước vô lượng vô biên.

Bửu tượng của Ngài có nhiều vẻ quang minh tốt đẹp, đều chiếu diệu cả mình, còn thân tướng thì sắc vàng mà có lằn điển quang trắng.

Ngài chỉ ngồi kiết già, trên thì đắp y, còn dưới thì mặc xiêm đều trọn một sắc trắng mà có bông, lại có đeo chuỗi anh lạc và trên ngực có hiện ra một chữ “vạn”.

Còn hai cườm tay có đeo hai chiếc bằng ốc trắng, hai bên cánh tay trỏ có xuyến thất châu coi rất xinh lịch, lại hai trái tai có được ngọc bửu đương và trong các ngón tay đều có đeo vòng nhỏ.

Trên đầu thì đội mão Hoa quang, trên mão ấy có hóa hiện ra 5 vị Như Lai.

Nơi mặt Ngài có 3 con mắt, trong mỗi con mắt ấy coi rất sắc xảo, dường như chăm chỉ ngó các chúng sanh mà có ý sanh lòng từ mẫn vậy.

Toàn thân của Ngài có mười tám cánh tay, mỗi bên chín cánh.

Hai bàn tay ở trên hết thì kiết ấn Chuẩn đề, như tướng đương lúc thuyết pháp.

Tay trái thứ hai cầm lá phướn như ý, còn tay mặt cầm cái thí vô úy.

Tay trái thứ ba cầm một bông sen đỏ, còn tay mặt cầm cây gươm.

Tay trái thứ tư cầm một bình nước, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi Ni ma bửu châu.

Tay trái thứ năm cầm một sợi dây Kim cang, còn tay mặt cầm một trái la ca quả.

Tay trái thứ sáu cầm một cái bánh xa luân, còn tay mặt cầm một cái búa.

Tay trái thứ bảy cầm cái pháp loa, còn tay mặt cầm cái thiết câu.

Tay trái thứ tám cầm một cái bình như ý, còn tay mặt cầm một cái chày kim cang.

Tay trái thứ chín cầm một cuốn Kinh Bát nhã Ba La Mật, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi dài.

Ngài ngồi trên tòa sen, dưới có hai vị Long Vương ủng hộ. Đó là bửu tượng của Ngài đại lược như vậy, nếu ai có lòng trì niệm, muốn chiêm vọng và quán tưởng, thì vọng niệm chẳng sanh mà chơn tâm hiển hiện.

Nếu công phu thuần thục lâu rồi, chẳng có chút gì gián đoạn, thì sẽ đặng phước quả rất rộng lớn, có ngày đạt tới nơi cực quả bồ đề nữa.

Song đương thời kỳ mạt pháp, những người sơ cơ hành giả, tam nghiệp chưa thuần, chẳng hay làm theo phương pháp chư quán, nên tâm sanh biếng nhác, thì tự nhiên phải mất hẳn hột giống bồ đề.

Nếu ai nương theo Kinh Pháp của Ngài mà thọ trì, thì mau đặng chỗ linh nghiệm.

Đương lúc quán tưởng thần chú của Ngài, thì cần nhứt phải tương phù, thì nẻo sanh tử nào mà ra chẳng khỏi, chỗ Niết bàn nào mà chứng chẳng đặng!

Vậy nên phải ân cần chuyên chú mà tu tập theo yếu pháp của Ngài, thì sẽ thấy rõ các việc hiệu quả.

Nghĩ coi, từ đời vô thủy trải vô lượng số kiếp nhẫn nay, chúng sanh chỉ bị màn vô minh che lấp, mắt chánh nhãn phải lu mờ, rồi vọng tâm phấn khởi, thường tạo nghiệp đa đoan, cho nên phải bị luân hồi trong vòng Lục đạo và đọa lạc vào nẻo Tam đồ.

Ai là người có chí nguyện muốn ra khỏi cái nạn khổ ấy, đặng mau đến chỗ diệu quả vô thượng bồ đề, thì phải nhứt tâm chơn thật đến trước Thánh tượng, mà đứng cho ngay và chấp tay đảnh lễ, chí tâm quán tưởng tôn dung của Ngài và duyên niệm thập phương Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo, thì thể của ta như hư không, chẳng có chỗ nào là chỗ chướng ngại, và tánh lại thường trụ, đoạn trừ đặng các tướng qua lại động tịnh. Hễ có cảm thì có ứng là lẽ tất nhiên như vậy.

Bởi vì Ngài thường mẫn niệm các chúng sanh trong đời vị lai, phước căn thiển bạc và ác nghiệp dãy đầy, nên mới lập ra một pháp môn quán tưởng có chín chữ Phạm là: “Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha”.

Nếu vẽ chín chữ ấy thành như cái mặt “Viên minh bố liệc phạm thơ đồ” rồi mỗi đêm thường quán tưởng, thì các tội đều tiêu diệt và sẽ được tăng ít phước điền nữa.

Chí như người tại gia hay là người xuất gia mà tu tập theo hạnh chơn ngôn nói trên đây, và tụng trì chú Đà la ni cho đủ chín mươi muôn biến, dẫu cho vô lượng kiếp đến nay có tạo những tội thập ác, ngũ nghịch và tứ trọng, phải mắc vào ngũ vô gián tội đi nữa, thì cũng thảy đều tiêu diệt tất cả.

Chú Đà la ni chép y dưới đây:

Nam mô Phật đà da, Nam mô đạt mạ da, Nam mô tăng già da. Án tất đế, hộ rô rô, tất đô rô chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị bố rô rị ta bà ha.

Nếu trì tụng được như vậy, thì đến ngày thọ chung đặng thác sanh vào chỗ thiện duyên và hưởng nhiều sự khoái lạc nữa.

Nói về phần hiệu quả của những người tại gia, tu theo pháp Tam quy ngũ giới, một lòng kiên cố, chẳng có chút nào thối chuyển, mà lại có lòng xu hướng và trì tụng chú Đà la ni, thì kiếp sau sẽ sanh về cõi Trời, hưởng phước đức đời đời, hay là sanh trong cõi nhơn gian, hoặc làm vị Quốc vương, hoặc làm bực Công hầu..thường gần gũi với các vị Thánh hiền mà chư thiên hay ái kỉnh, thường hết lòng ủng hộ gia trì, chẳng khi nào bị đọa vào đường ác thú.

Còn nếu những người ấy ra kinh doanh trong trường thế cuộc, thì không có tai hại gì, cho đến nghi dung cũng đoan chánh, lời nói rất ôn hòa, tâm không phiền não, an nhàn tự tại, lui tới thung dung, hưởng phước một đời, rất nên mỹ mãn.

Nói về phần hiệu quả của các vị xuất gia, nếu giới cấm đã hoàn toàn, công hạnh đã thuần thục, mỗi ngày ba thời tụng niệm, rồi y theo giáo pháp của Đức Chuẩn Đề mà tu hành, và chí nguyện cầu đến chỗ tất địa Xuất thế gian của Chư Phật, thì tự nhiên tâm không sất ngại, tánh lại viên minh, một màu thanh tịnh, không còn trước nhiễm nơi cảnh hữu vi, chỉ thấy định huệ hiện tiền.

Chừng đó sẽ chứng đặng quả địa “Ba La Mật” rất viên mãn, rồi có ngày sẽ chứng đến quả “Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề”.

Thoảng như quán tưởng thấu đáo tới chỗ thâm lý, thì đương lúc hiện tại cũng chứng được Phật quả Đại thừa.

Có phải là pháp môn của Đức Chuẩn Đề rất vi diệu và rất thuần túy hay không?

Tuy chơn ngôn từ ngữ như vậy, chớ toàn thị là vô tướng pháp giới, mà lục độ và vạn hạnh cũng là từ trong pháp giới lưu bố ra.

Nói tóm lại, Đức Chuẩn Đề Phật Mẫu là một vị Pháp thân Bồ tát ở cõi trang nghiêm thế giới, không có giáng sanh nơi cõi nhơn gian. Song giáo Pháp của Ngài rất nên bí mật mà nay được rõ biết đây, là nhờ Đức Thích Ca giải rõ chỗ lý địa và hình tướng, nên người sau mới biết công đức và họa bửu tượng mà thờ như vậy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/05/2021(Xem: 3941)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 7413)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 7673)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5669)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
27/04/2021(Xem: 4340)
Đêm yên tĩnh. Nhìn ra khung kiếng cửa sổ chỉ thấy một màu đen, đậm đặc. Cây cối, hàng giậu, lẳng hoa, bồn cỏ, ghế đá, và con đường ngoằn ngoèo trong công viên, có thể sẽ khó cho khách bộ hành nhận ra vị trí và thực chất của chúng. Cây bên đường có thể bị nhầm là kẻ trộm đối với cảnh sát, và sẽ là cảnh sát đối với kẻ trộm (1). Giây thừng hay con rắn. Con chim hay con quạ. Con sóc hay con mèo. Người hay quỉ. Mọi vật đều một màu đen. Trong bóng đêm, mọi thứ đều dễ trở nên ma mị, huyễn hoặc.
27/04/2021(Xem: 4127)
Cũng như tình trạng nghiêm trọng của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi chỉ có thể theo đuổi một trong ba trường hợp – chiến đấu, bỏ chạy, hay đàm phán. Ngài có thể tập họp lại đội quân ít ỏi, vũ khí thô sơ, rèn luyện sơ sài và đưa họ đối mặt với một lực lượng quân sự mạnh mẽ vượt trội, biết rằng ngài gần như chắc chắn đang kết án tử hình cho đội quân của ngài và xứ sở của ngài cuối cùng sẽ bị đánh bại. Ngài có thể trốn chạy khỏi đất nước, nhưng như vậy sẽ để lại dân tộc ngài không có lãnh đạo và vẫn chịu sự thương hại của những kẻ xâm lược. Hay, ngài vẫn ở lại Tây Tạng và cố gắng để đàm phán một thỏa hiệp với Tàu Cộng để bảo vệ dân tộc ngài và nền văn hóa của họ. Để thực hiện một quyết định đúng đắn, ngài phải biết hơn về Trung Hoa.
27/04/2021(Xem: 6561)
Được sự cho phép của lãnh đạo chính quyền và sự trợ duyên của nam nữ Phật tử, câc nhà hảo tâm khắp nơi, chùa Diên Khánh đã khởi công trùng tu ngôi Tam Bảo vào ngày 12/3 năm Tân Sửu, nhưng kinh phí còn quá khiêm tốn, nên việc tái thiết trùng tu ngôi chánh điện đang dang dở, trì trệ... Nay nhà chùa một lần nữa tha thiết đăng lại bức "Thư Ngỏ", kính gửi lời đến quý đạo hữu, nhà hảo tâm, Phật tử gần xa để công việc trùng tu sớm được hoàn thành.
19/04/2021(Xem: 11688)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
15/04/2021(Xem: 9765)
Bài viết này (phần B) cập nhật và tóm tắt buổi trình bày về bài viết "Tản mạn về tiếng Việt và Hán Việt: tại sao Trung Quốc dùng danh từ khoái 筷 còn Việt Nam dùng đũa (trợ 箸)?" tại hội thảo UNC2021_0116 tại Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN (sẽ diễn ra vào ngày 24/4/2021). Các trang bên dưới được trích từ các trang của Power Point Presentation, dựa vào bài viết đã đăng và dán lên đây theo dạng word cho dễ đọc hơn.
15/04/2021(Xem: 7343)
Chúng ta thường biết là Vi Diệu Pháp là Tạng của Nguyên Thủy áp dụng tu học ngày nay rất phổ biến. Tạng này cũng nói về Tâm và nghiên cứu sâu rộng. Riêng Đại Thừa thì có Duy Thức Luận cũng tương tự chỉ khác là có 2 thức Mạc Na Thức số 7 và Tạng Thức số 8. Vi Diệu Pháp là do Xá Lợi Phất giảng còn Duy Thức Luận là do Vô Trước Thế Thân giảng, tất cả đều do Bồ Tát mở rộng ra mà thôi và là Luận tức là luận bàn do qui từ nhiều kinh lại và không do Phật giảng. Xá lợi Phất giảng Vi Diệu Pháp do Phật giảng trên cõi trời cho mẹ của Phật còn Vô Trước Thế Thân giảng là do Phật Di Lạc giảng cũng trên cõi trời. Bài viết nầy chủ yếu đưa ra khái luận về Tâm Thức theo hai phái Nguyên Thủy và Đại Thừa dựa vào Phân Tâm Học ngày nay. Chúng ta nghiên cứu trên căn bản tâm lý học về tạng Vi Diệu Pháp và Duy Thức Luận.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]