Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần thứ sáu

25/03/201213:05(Xem: 9563)
Phần thứ sáu
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ CHÚA GIÊSU
Nguyên tác: LE DALAI LAMA PARLE DE JÉSUS
Éditions Brepols, Paris. 1996
Người dịch: Vĩnh An

PHẦN THỨ SÁU

“Khoảng tám ngày sau cuộc đàm thoại, Đức Giêsu đem theo Phêrô, Gio-an và Gia-cô-bê lên núi cầu nguyện. Trong lúc Ngài cầu nguyện, khuôn mặt Ngài biến đổi sáng ngời và y phục Ngài trở thành trắngtinh rực rỡ. Và kìa có hai người đang nói chuyện với Ngài : đó là Môi-sê và Êli, xuất hiện trong vinh quang nói về cuộc khổ nạn mà Ngài phải hoàn tất ở Giê-ru-sa-lem. Phêrô và hai bạn còn ngủ li bì ; tuy nhiên khi tỉnh dậy, họ nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai vị Môi-sê và Êli đứng gần Ngài. Khi họ chia tay với Đức Giêsu, Phêrô nói với Ngài : “Thưa Thầy, chúng con sung sướng được ở đây: chúng con có thể dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môi-sê và một cho Êli.” Phêrô không biết điều mình đã nói. Khi ông còn đang nói, một đám mây đến bao trùm lấy các Ngài, các môn đệ hoảng sợ khi thấy các ngài biến mất trong đám mây. Lúc đó từ đám mây có tiếng nói vang ra : “Đây là CON yêu quý của ta, các ngươi hãy nghe lời người !” Và trong lúc tiếng nói còn vang dội, Đức Giêsu ở lại một mình. Các môn đệ lặng thinh, và trong những ngày ấy, không nói cho ai biết điều họ đã trông thấy.” [Luc, 9, 28-36]

Đức Đạt Lai Lạt Ma : “Một lần nữa, đoạn văn về sự biến hình nêu ra những đề tài chung cho những truyền thống tôn giáo lớn của thế giới. Các đề tài chung ở đây là khả năng có những kinh nghiệm thần bí bằng thị kiến và sự quan trọng của các ẩn dụ như cầu vồng, đám mây, mặc dù trong văn cảnh của Phúc Âm, ý nghĩa của các đề tài ấy có hơikhác vì tính độc nhất (vô nhị) khi quan niệm về Đức Giêsu như CON ThiênChúa. Nhưng đại thể, nếu một Phật tử thuần thành đạt đến một độ cao thành tựu trên đường tiến hóa tâm linh thì một sự biến đổi như thế có thể được biểu lộ ở cả bình diện vật lý. Các kinh Phật (sutras) kể lại những câu chuyện tương tự về Đức Phật. Giống như trong Phúc Âm, các câu chuyện bắt đầu cho biết Đức Phật đang ngụ tại một nơi nào đó, ở một lúc nào đó. Các môn đệ – chủ yếu là hai môn đệ xuất chúng, Shariputa (Xá LợiPhất) và Maudgalyayana (Mục Kiền Liên) – nhận thấy có sự thay đổi trongngoại hình của Đức Phật. Một luồng ánh sáng chiếu tỏa từ thân thể Ngài và một nụ cười nhẹ nhàng đặc biệt chiếu sáng dung nhan Ngài. Rồi thì, một môn đệ hỏi Đức Phật : “Con thấy có những sự thay đổi nơi Thầy. Tại sao chúng xảy ra ? Vì những lý do gì ? Tư tưởng nào đang hiện ra trong tâm trí Thầy ? Xin Thầy vui lòng trả lời cho chúng con.” Những dụ ngôn ấy giống với dụ ngôn mà chúng ta tìm thấy trong đoạn Phúc Âm về sự biến hình.

“Thị kiến về hai vị tiên tri Môi-sê và Êli cũng tươngứng với nhiều truyện kể Phật giáo nói về các sự kiện thần bí trong đó một cá nhân thấy mình đối diện với các nhân vật lịch sử. Người ta gọi đólà những dag-nang, những kinh ngiệm về những thị kiến thuần túy. Trong một số trường hợp, có thể đó là những tiếp xúc đích thực với các nhân vật lịch sử, ở bình diện thần bí. Trong các trường hợp khác, đó là sự gặp gỡ với những người khác mặc lấy ngoại hình và dáng vẻ của các nhân vật ấy. Những sự tiếp xúc như thế có thể xảy ra.

“Để hiểu được các hiện tượng thần bí ấy, cần phải có kiến thức tối thiểu về hiện tượng hiển lộ hay hóa hiện (émanation) nói chung. Ví dụ như mức độ tự trị của một hóa hiện tùy thuộc trình độ thànhtựu của cá nhân tạo nên hóa hiện, nói cách khác của chủ thể hóa hiện. Ởmột mức độ thấp hơn, một sự hóa hiện được tạo bởi một cá nhân, trong một mức độ rộng lớn được chủ thể hóa hiện kiểm soát và điều khiển gần giống như một máy điện toán. Trái lại, ở một cá nhân đã đạt tới những thành tựu tâm linh cao, các hình thể được hóa hiện có thể có một mức độ tự trị cao. Một đoạn trong bản văn Phật giáo phát biểu rằng những hóa hiện do một vị toàn giác tạo nên có được một mức độ tự trị rất cao. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa các hóa hiện là có thật và chúng là những sinh vật. Trong một ý nghĩa nào đó, chúng chỉ là những tạo vật đơn thuầncủa tinh thần đã tiến hóa cao đó. Vì thế, một trong bốn giới răn chính của luật tu là cấm sát sinh. Để có sát sinh, đối tượng của hành động sátsinh phải là một con người chứ không phải là một vật hóa hiện : bởi lẽ những người được hóa hiện không được coi như những sinh vật có thật.

“Ngày nay cũng vậy, nhiều người có kinh nghiệm về thịkiến thần bí. Một số người đã bước vào tiếp xúc với các đại sư của Ấn Độ và Tây Tạng. Chính tôi cũng thích có những kinh nghiệm như thế. Nhưngthan ôi ! Tôi có nhiều câu hỏi để đặt ra ! Nếu tôi phải làm một kinh nghiệm như thế với các đại sư Ấn Độ của quá khứ, tôi sẽ đóng vai trò mộtnhà khoa học, một trạng sư của quỷ và tôi có một đống câu hỏi đặt ra ! Nếu những cá nhân đạt tới trạng thái tâm linh tiến hóa cao có khả năng hóa hiện và tự biểu hiện dưới nhiều hình thức, không vì thế mà mọi ngườisẽ có khả năng tri giác thị kiến và sự hiện diện ấy. Để nắm bắt thị kiến người ta phải đạt tới một mức độ trưởng thành nào đó, có khả năng tiếp thu và mở rộng tâm linh. Ví dụ trong đoạn văn có nói Phêrô nhìn thấy Môi-sê và Êli, nếu vào lúc đó những người khác cùng đi theo Đức Kitô, hoàn toàn có khả năng một số người trong nhóm đã không nhìn thấy Môi-sê và Êli.

“Đối diện với hiện tượng hóa hiện như thế, thông thường người ta muốn biết cơ chế của chúng. Phải giải thích chúng trên nền tảng nào ? Trong Phật giáo, nếu chúng ta đặt mình trong nhãn giới tantra, phương diện bí truyền của Phật giáo Tây Tạng, có thể đưa ra lời giải thích từ động lực của các năng lượng vi tế được gọi là prana. Nhờ vào những kỹ thuật thiền định khác nhau, hành giả có thể đạt đến một trình độ cao của việc điều nhiếp các năng lực tâm lý. Trong hệ thống cácsutra, đó là hệ thống phi-tantra, người ta tường trình các kinh nghiệm ấy bằng các ngôn từ chỉ sức mạnh tập trung hay sức mạnh thiền định. Nói đúng ra, đó là những hiện tượng rất huyền bí, tôi không tự cho mình có khả năng giải thích chúng chi tiết. Tôi nghĩ rằng đó là những lãnh vực cần nhiều sự nghiên cứu tìm tòi cũng như thử nghiệm.

“Những cuộc gặp gỡ ở trong thị kiến diễn ra ở những trình độ khác nhau mà người ta có thể xếp thành ba loại lớn. Các cuộc gặp gỡ loại đầu tiên được cảm nghiệm trên một bình diện thần bí và trực giác hơn ; cuộc gặp gỡ thực ra không hiện thực hay hiển nhiên nhưng đúnghơn thuộc bình diện cảm giác hay trực giác một sự hiện diện. Các cuộc gặp gỡ thuộc loại thứ hai thì hiển nhiên hơn nhưng không thuộc bình diệngiác quan ; chúng được cảm nhận ở bình diện tâm lý, ý niệm. Còn loại balà các cuộc gặp gỡ hiển nhiên nhất : đó là các kinh nghiệm từ giác quannhư gặp một ai, mặt đối mặt, đôi mắt mở to.

“Một hiện tượng tương tự đi kèm theo các thị kiến thần bí xảy ra ở hồ thiêng Lhamoš Lhatso ở Tây Tạng. Tôi đã nghe nói rằng các du khách nước ngoài đã có những thị kiến ở hồ ấy. Tuy nhiên, nếu mười người nhìn hồ cùng một lúc, mỗi người có thể có một thị kiến khác nhau. Nhưng cũng có thể cả mười người đều thấy cùng một hình ảnh. Thậm chí người ta cũng có thể chụp ảnh các thị kiến. Tại sao lại có những sự khác nhau ấy? Thật là mầu nhiệm sâu xa. Nhưng hẳn phải có một lời giải thích.

“Trong các đoạn Phúc Âm này, người ta thấy có một sự quy chiếu về số mệnh. Điều này dẫn tôi đến chỗ tự hỏi trong bối cảnh Kitô giáo có hay không niềm tin mỗi người có một số mệnh riêng biệt phảihoàn tất.”

Cha Laurence : Vâng. Mọi người đều có một số mệnh mà nói cho rốt ráo là phải tham dự vào sự hữu của Thiên Chúa.

Đức Đạt Lai Lạt Ma : Người ta có thể nói rằng, do những hoàn cảnh, mà số phận cá nhân được tiến triển và thay đổi không ?

Cha Laurence : Vâng, bởi vì cá nhân được tự do chấp nhận hay không số mệnh hay “tiếng gọi” đó. Có một mối liên hệ giữa số mệnh và sự tự do.

Đức Đạt Lai Lạt Ma : Trong Phật giáo, mặc dù người takhông dùng từ số mệnh, mà thấy có khái niệm karma (nghiệp) là một từ tương đương gần giống số mệnh. Nếu karma bao gồm một lực đẩy có mức độ, thì trong mọi trường hợp, cần có đủ điều kiện để karma được thực hiện. Như tôi đã nói, một số hình ảnh như đám mây, cầu vồng đều được thấy trong nhiều truyền thống tôn giáo. Về mặt tự nhiên, khoa học có thể giảithích cầu vồng hình thành ra sao do độ ẩm, nhiệt độ… Nhưng tôi luôn luôn buộc phải suy nghĩ về những cầu vồng riêng của mỗi người không phảido nhiều màu sắc mà giống như một ánh sáng trắng thuần khiết trải ra theo đường thẳng thay vì tạo thành hình cung. Tôi luôn luôn tự hỏi điều ấy có thể hiện hữu như thế nào.

Trong Phật giáo Tây Tạng, hình ảnh của cầu vồng bao gồm hai chức năng. Trước tiên nó thường kết hợp với các dấu chỉ điềm tốt, may mắn, hoạnh tài. Ngoài ra, cầu vồng còn minh họa bản chất huyễn hóa và không thực thể của các sự vật và biến cố. Tôi thích thú thấy đoạnvăn này kể lại một tiếng nói đến từ không trung. Cũng vậy, trong các lời giáo huấn của Phật giáo, người ta tìm thấy những quy chiếu tương tự vào một tiếng nói không biết từ đâu đến. Ở Tây Tạng người ta thường tin rằng vào thế kỷ thứ VII, dưới triều đại của Lha Tho-thơri, các kinh điểnPhật giáo từ trời giáng xuống. Các học giả đã bác bỏ và khẳng định kinhđiển đưa từ Ấn Độ về. Nhưng thời kỳ ấy, nếu người ta biết được kinh điển thật ra từ Ấn Độ đưa về, hẳn người ta đã không tôn thờ kinh điển. Tóm lại, huyền thoại kinh điển từ Trời giáng xuống đã xuất hiện và huyềnthoại ấy đã đóng một vai trò đặc biệt trong truyền thống tâm linh của họ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/04/2021(Xem: 5248)
Từ xa xưa, người Việt chúng ta đã ăn bí đỏ và xem bí đỏ là món quà thiên nhiên ban tặng giúp con người duy trì sức khỏe hằng ngày. Bí đỏ có vị ngọt, thơm ngon và tạo cảm giác no, giúp những gia đình nông dân nghèo cải thiện tình trạng thiếu lương thực trong những ngày giáp hạt. Bí đỏ là loại thực phẩm thường xuyên có mặt trong bữa cơm của người dân Việt Nam, nhất là ngươi Quảng Nam.
07/04/2021(Xem: 4356)
“Tướng” là cái gì?“Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.Còn “Giả Tướng” là cái gì? Chúng ta không phải thường ngày đã thấy đến như: hình tướng vuông, tròn, dài, ngắn; sắc tướng đỏ, xanh, đen, trắng; biểu tướng nhanh, chậm, cười, khóc; cho đến vô biểu tướngkhổ, vui, mừng, lo màkể cả con mắt xem không thể thấy.Đây không phải là “Tướng” trạng tồn tại nổi bậtđó sao?. Tại sao bảo đây là “Giả Tướng”?Đáp rằng: Nên hỏi “Giả Tướng” là gì?Giả là giả tạo không thật.
07/04/2021(Xem: 4127)
Hơn ba thập niên về trước, khi những đoàn người Việt nam rủ nhau tìm đường thoát hiểm, thoát khỏi địa ngục bằng mọi cách như hồi hương, đi bộ, băng rừng lội suối hoặc trên những con thuyền mong manh bằng đường biển. Dù số người đến được bến bờ ước đoán chỉ vào khoảng một phần ba số người đã rời bỏ nhà cửa, quê hương ra đi, họ vẫn bất chấp mọi hiểm nguy đe dọa để đánh đổi lấy sự tự do. Họ là những đoàn người Việt Nam cô đơn, không có lấy một phương tiện tự vệ.
05/04/2021(Xem: 7689)
Lễ cúng dường tại Chùa Tích Lan, Nhật Bản
05/04/2021(Xem: 4972)
Việc quân đội đã nắm quyền kiểm soát quốc gia Đông Nam Á này, bắt giữ bà Aung San Suu Kyi và một số lãnh đạo dân cử khác từ ngày 1 tháng 2 vừa qua, không phải là lần đầu tiên các tướng lĩnh của xứ chùa tháp này can thiệp vào chính trị quốc gia. Quá khứ nhiều thập kỷ, quân đội Myanmar đã từng giữ một vị trí chính trị nổi bật trong nước. Trong gần nửa thế kỷ, từ thập niên 1962-2011, quốc gia Phật giáo này đã liên tiếp dưới quyền các chế độ độc tài quân sự Myanmar.
03/04/2021(Xem: 5058)
Sự tàn phá bi thảm của các tượng Phật khổng lồ trên vách đá vùng Bamiyan, Afghanistan, được bảo tồn hơn 15 thế kỷ, được phát sóng trên toàn cầu, đã dẫn đến sự công nhận toàn cầu về sự cần thiết phải bảo vệ các di sản văn hóa đang bị đe dọa. Các hốc trống của các tượng Phật khổng lồ ở thung lũng Bamiyan, Afghanistan là lời nhắc nhở mãi mãi về nhiệm vụ của chúng ta trong việc bảo vệ di sản văn hóa, và những thế hệ tương lai sẽ mất đi nếu chúng ta không làm như thế. Ngày nay, những hốc đá này được ghi vào Danh sách Di sản Thế giới như một phần của Di sản Thế giới “Cảnh quan văn hóa và các di tích khảo cổ học tại Thung lũng Bamiyan” (Cultural Landscape and Archaeological Remains of the Bamiyan Valley)
03/04/2021(Xem: 4382)
Hôm thứ Hai, ngày 29 tháng 3, tại Dharamsala, miền bắc Ấn Độ, lần Đầu tiên Đức Đạt Lai Lạt Ma Tham gia chia sẻ Pháp thoại với Sinh viên từ 5 trường Đại học Quốc gia Nga. Buổi Pháp thoại được tổ chức với chủ đề “Thế giới của chúng ta trong thời đại thay đổi; tiếng Anh: Our World in the Time of Change” và được phát trực tiếp bằng một số ngôn ngữ.
03/04/2021(Xem: 4638)
Vương quốc của người Java xưa - Mataram đã chứng minh được là có an ninh lương thực vững chắc, có thể duy trì nguồn lương thực sẵn có trong một thời gian dài. Điều này có thể được chứng minh từ các bức phù điêu được khắc ở Thánh địa Phật giáo Borobudur, cũng như phát hiện gần đây nhất về một kho thóc, khu vực chứa lương thực thời đó, ở khu vực Liyangan Site, Trung Java, Indonesia. Điều này đã được chuyển tải bởi Tiến sĩ Baskoro Daru Tjahjono, M.A, Giám đốc Trung tâm Khảo cổ Bắc Sumatra, trong hội thảo khoa học do Trung tâm Khảo cổ học tổ chức tại Vùng đặc biệt Yogyakarta (Daerah Istimewa Yogyakarta, DIY) vào ngày 10/3/2021 với chủ đề “Ketahanan Pangan pada Masa Jawa Kuna” (An ninh lương thực trong thời kỳ người Java xưa). Các sự kiện được tổ chức trực tuyến và ngoại tuyến với số lượng người tham gia hạn chế.
31/03/2021(Xem: 16987)
Như bao đứa trẻ bình thường nhưng chúng được thừa nhận là tái sinh của các Lạt Ma Tây Tạng, ba ứng thân người Tây Phương chia sẻ với Andrea Miller về trải nghiệm khi lớn lên và cảm nghĩ hiện tại của họ về ngã rẽ thú vị của đời mình. Như những đứa trẻ Canada khác, Elijah Ary lớn lên tại Moreal với bố mẹ và hai người chị. Cậu bé thích chơi khúc côn cầu và lười học. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, điều khiến Elijah khác với các đứa trẻ khác là Elijah là tái sanh của một vị Lạt Ma.
31/03/2021(Xem: 5131)
Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng, là một nhân vật quen thuộc của công chúng. Ngài nói chuyện với hàng nghìn người mỗi năm và đã viết hàng chục quyển sách bán chạy nhất về quê hương của ngài, cuộc sống của ngài, tôn giáo niềm tin của ngài, khí hậu thế giới, và các vấn đề thế giới. Ngài đã được cấp bằng danh dự từ nhiều trường đại học, và đức tướng của ngài đã được công nhận một cách rộng rãi. Tuy nhiên, “vị tu sĩ đơn giản” đã bắt đầu cuộc sống trong bóng tối như Lhamo Thondup, người con thứ tám được sanh ra trong những gia đình nông dân nghèo trong một làng quê nhỏ bé ở một vùng xa xôi hẻo lánh của Tây Tạng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]