Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Trạch Pháp

24/07/201208:03(Xem: 7214)
02. Trạch Pháp

NGAY TRONG KIẾP SỐNG NÀY
Tác giả: Sayadaw U. Pandita
Dịch giả: Khánh Hỷ

Bảy Pháp Trợ Bồ Ðề

oo0oo

Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Hai: Trạch Pháp

Tâm ta đầy mê mờ tăm tối bao phủ, nhưng khi trí tuệ sinh khởi thì ánh sáng đến. Mê mờ và tăm tối biến mất. Ánh sáng làm hiển lộ các hiện tượng danh sắc, giúp tâm có thể thấy chúng một cách rõ ràng. Cũng như khi đi vào phòng tối nếu có được một cây đèn bấm, thì ta sẽ thấy được những gì trong phòng.

Trạch Pháp trong Thiền Minh Sát không có nghĩa là tìm tòi, nghiên cứu, hay suy nghĩ thẩm định, tuyển lựa, v.v..., mà có nghĩa là trực giác, một sự nhận biết bằng trí tuệ để phân biệt mọi đặc tính của các hiện tượng. Chữ trạch pháp được dịch từ danh từ Pali "vicaya" còn có nghĩa là trí tuệ thấu triệt và sáng suốt. Khi vicaya có mặt thì trạch pháp và trí tuệ cùng hiện khởi.

Trạch pháp là thấy các pháp; ở đây là thấy các hiện tượng của thân và tâm, thấy luật điều hành các hiện tượng đó, thấy những đặc tính riêng, cũng như những đặc tính chung của các đối tượng. (Ðặc tính riêng của sắc là tứ đại, đặc tính của đất, nước, gió, lửa. Ðặc tính riêng của danh là nhận biết. Ðặc tánh chung của danh và sắc là vô thường, bất toại nguyện và vô ngã, hay không có bản chất.) Ðây là hai đặc tính mà thiền sinh phải kinh nghiệm trong khi hành thiền.

Thấy Rõ Bản Chất Các Pháp

Tính chất của trạch pháp là khả năng hiểu biết phát sinh từ sự thấy rõ bản chất thực sự của các pháp mà không qua sự suy nghĩ.

Loại Trừ Ðen Tối

Trạch pháp có công năng loại trừ hắc ám. Khi vicaya có mặt, chánh niệm được thắp sáng, đề mục quán sát được thấy rõ, tâm có thể nhận thức được những đặc tính và suốt thấu được bản chất của đối tượng.

Ở một mức độ cao hơn, trí tuệ có công năng loại trừ mọi bóng tối che lấp, giúp tâm xuyên suốt Niết Bàn.

Vậy trạch pháp là một yếu tố quan trọng trong việc hành thiền. Khi trạch pháp yếu đuối hay vắng mặt thì ta sẽ gặp khó khăn.

Phá Tan Bối Rối Phân Vân

Khi bước chân vào một căn phòng tối tăm, bạn sẽ thấy bối rối, phân vân. Bạn có thể tự nghĩ: "Coi chừng lại đạp lên vật gì. Lò dò như vầy, không khéo lại giập ống quyển, va đầu vào tường như chơi". Tâm ta bối rối hỗn loạn vì không biết trong phòng có vật gì và chúng nằm ở đâu. Cũng vậy, khi trạch pháp có mặt thì tâm ta không ở trong tình trạnh bối rối hoang mang, đầy do dự và hoài nghi: "Có người hay không có người? Có tự ngã hay không có tự ngã? Ta là một cá thể hay không phải là một cá thể? Có linh hồn hay không có linh hồn? Có tinh thần hay không có tinh thần?".

Bạn cũng có thể có những nghi ngờ như vậy. Có thể bạn nghi ngờ về vô thường, khổ và vô ngã: "Bạn có chắc rằng mọi vật đều vô thường không? Có thể có vài thứ không hoàn toàn khổ như những thứ khác. Có thể có một cái ta mà ta chưa tìm ra cũng không chừng". Bạn có thể nghĩ rằng Niết Bàn chẳng qua là một chuyện thần tiên mà thiền sư tưởng tượng ra chứ không có thật.

Sự biểu hiện của trạch pháp là xóa tan mọi bối rối hoang mang. Khi trạch pháp có mặt thì mọi vật đều sáng sủa, và tâm có thể thấy rõ ràng những gì đang có mặt. Khi thấy rõ bản chất của các hiện tượng tâm vật lý, bạn sẽ không còn lo lắng phải va vào tường. Vô thường, khổ não, vô ngã sẽ được bạn thấy một cách rõ ràng. Cuối cùng bạn sẽ chứng ngộ Niết Bàn và không còn chút hoài nghi nào nữa.

Chân Ðế

Trạch pháp làm biểu lộ các đặc tướng của chân đế hay sự thật tuyệt đối (paramattha), nghĩa là hiểu biết đối tượng một cách trực tiếp không qua tục đế hay khái niệm. Có ba loại chân đế: hiện tượng vật chất, hiện tượng tâm, và Niết Bàn.

Hiện tượng vật chất bao gồm bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Mỗi yếu tố có những đặc tính riêng biệt và sẵn có trong đó. Chúng ta trực nhận được những yếu tố này ngay chính trong thân thể của chúng ta.

Yếu tố đất, hay địa đại, mang đặc tính cứng. Yếu tố nước, hay thủy đại, mang đặc tính lỏng, hay dính hút. Yếu tố lửa, hay hỏa đại, là nhiệt độ nóng, lạnh. Yếu tố gió, hay phong đại, là sự kéo, căng, cơ động, hay di chuyển.

Hiện tượng tâm cũng có những đặc tính riêng. Chẳng hạn tâm hay thức có đặc tính nhận biết đối tượng và các tâm sở mang những đặc tính khác, chẳng hạn tâm sở xúc có đặc tính xúc chạm, tâm sở thọ có đặc tính vui buồn...

Bây giờ hãy chú tâm vào sự phồng xẹp của bụng. Khi bạn chú tâm chánh niệm vào chuyển động, bạn sẽ thấy những cảm giác bên trong như là căng thẳng, kéo, dãn, sức ép, chuyển động, đó là những biểu hiện của yếu tố gió. Bạn cũng có thể thấy lạnh hay nóng, đó là yếu tố lửa. Bạn có thể thấy cứng hay mềm đó là yếu tố đất. Bạn có thể thấy lỏng hay dính hút đó là nước. Những cảm giác này là đối tượng của tâm. Chúng là các pháp mà bạn quán sát. Nếu bạn nhận biết một cách trực tiếp và bạn chánh niệm cảm giác một cách đặc biệt thì bạn có thể nói rằng trạch pháp đang có mặt trong bạn.

Trạch pháp cũng có thể nhận biết được những khía cạnh khác của pháp. Khi bạn nhận biết được chuyển động phồng xẹp, bạn có thể ngẫu nhiên ghi nhận rằng có hai hiện tượng khác nhau đang xảy ra. Một bên là hiện tượng vật chất, cảm giác căng cứng và chuyển động. Một bên là sự ý thức, đó là tâm ghi nhận, nhận biết đề mục. Ðó là sự hiểu biết, xuyên thấu vào bản chất của sự vật.

Khi bạn tiếp tục hành thiền, một loại trí tuệ khác sẽ hiện khởi. Bạn sẽ thấy rằng tất cả các pháp đều mang đặc tính vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Yếu tố trạch pháp sẽ giúp bạn nhìn thấy bản chất của thế gian qua các đối tượng thân và tâm. Khi trí tuệ nhận biết vô thường, bất toại nguyện và vô ngã chín muồi thì bạn sẽ có đủ khả năng để chứng nghiệm Niết Bàn. Trong trường hợp này, trạch pháp cũng còn nghĩa là thấy rõ Niết Bàn.

Niết Bàn có đặc tính xuất thế, khác hẳn các đặc tính và hiện tượng thông thường. Vì vậy, không thể dùng ngôn ngữ thế tục để diễn đạt. Tuy nhiên, có thể hiểu Niết Bàn là thường, vĩnh viễn, không đau khổ, an lạc và hạnh phúc. Giống như các đối tượng khác, Niết Bàn được gọi là vô ngã, nhưng bản chất vô ngã của Niết Bàn khác hẳn với vô ngã của các hiện tượng thông thường, vì vô ngã của Niết Bàn không có đau khổ và vô thường, mà chỉ có an lạc và trường cửu.

Khi tâm xuyên thấu Niết Bàn, nhờ trạch pháp, ta sẽ thấy các đặc tính của Niết Bàn một cách rõ ràng. Trạch pháp hiểu rõ bằng trí tuệ các pháp đã đưa chúng ta đến Niết Bàn, và bấy giờ, cho chúng ta thấy Niết Bàn một cách rõ ràng.

Trí Tuệ Tự Phát Là Nguyên Nhân của Trạch Pháp

Theo Ðức Phật, chỉ có một nguyên nhân duy nhất giúp phát sinh trạch pháp, đó là trí tuệ tự phát, sự hiểu biết trực tiếp. Muốn có được trí tuệ này, bạn phải tích cực chánh niệm. Bạn phải ý thức một cách thông suốt bằng chánh niệm những gì đang xảy ra, rồi tâm sẽ có trí tuệ để thấu suốt bản chất của các hiện tượng. Sự hoàn thành này đòi hỏi phải có sự chú tâm sáng suốt, sự chú tâm thích hợp. Khi tâm hướng về đối tượng một cách chánh niệm, bạn sẽ có trí tuệ đầu tiên, hay tri kiến trực tiếp. Khi yếu tố trạch pháp phát sinh, thì trí tuệ sẽ đương nhiên và tuần tự nối chân theo như một học sinh tuần tự học bậc tiểu học, trung học, rồi lên đại học và cuối cùng, tốt nghiệp.

Bảy Cách Khác Ðể Phát Triển Trạch Pháp

Chú giải có nói lên bảy cách để giúp cho trạch pháp phát triển.

1. Ðặt Câu Hỏi

Ðó là đặt câu hỏi liên quan đến giáo pháp và việc hành thiền. Ðiều này có nghĩa là tìm một người hiểu biết giáo pháp để nói chuyện và học hỏi. Những người Tây phương rất dễ dàng hoàn tất điều kiện đòi hỏi đầu tiên này. Ðây là một đức tính tốt giúp cho trí tuệ phát triển.

2. Sạch Sẽ

Sạch sẽ ở đây là sạch sẽ bên trong và sạch sẽ bên ngoài, tức là sạch sẽ chính cơ thể mình và những gì quanh mình. Sạch sẽ bên trong, hay sạch sẽ thân, là phải năng tắm rửa, đầu tóc gọn gàng, móng tay móng chân cắt ngắn và đừng để bị bón uất. Sạch sẽ bên ngoài là ăn mặc sạch sẽ, gọn gàng; phòng ốc thứ tự, gọn gàng và sạch sẽ. Ðiều này giúp cho tâm trong sáng. Khi mắt nhìn thấy bụi bặm và sự hỗn loạn thiếu ngăn nắp, thì sự bối rối hỗn loạn cũng phát sanh theo. Nhưng khi mọi điều kiện và hoàn cảnh chung quanh đều gọn gàng, tươm tất, thì tâm sẽ trong sáng. Một tâm trong sáng là điều kiện lý tưởng cho việc phát triển trí tuệ.

3. Quân Bình Tâm

Quân bình ngũ căn đã được đề cập ở phần trước. Tín, tấn, niệm, định, huệ phải được phát triển hài hoà. Tín quân bình với huệ, tinh tấn quân bình với định. Việc hành thiền tùy thuộc vào sự quân bình các lực hỗ tương này.

Nếu đức tin mạnh hơn trí tuệ thì sẽ thành cả tin. Bất cứ cái gì cũng tin được, hoặc sẽ bị lôi cuốn bởi những tư tưởng quá sùng tín, quá mộ đạo. Ðức tin rất cần thiết nhưng phải biết quân bình với trí tuệ. Nếu không thì đức tin sẽ trở thành một trở ngại.

Mặt khác, nếu trí tuệ hay sự thông thái quá trội sẽ khiến tâm vọng động, suy nghĩ, đánh giá. Nhiều lúc sẽ đưa đến hậu quả là thiền sinh sẽ tự lừa dối mình bằng nhiều cách.

Nếu tinh tấn quá trội, thiền sinh sẽ quá thích thú và hăng say thực hành. Khi quá hăng say thì tâm sẽ giao động bất an, không thể an trụ trên đề mục quán sát. Khi tâm trượt khỏi đề mục, vọng động tán loạn sẽ gây ra nhiều sự khó chịu.

Nếu định nhiều quá lại có thể dẫn đến làm biếng và dã dượi buồn ngủ. Khi tâm trở nên tĩnh lặng và dường như dễ dàng an trụ trên đề mục không rời thì thiền sinh bắt đầu muốn nghỉ ngơi và buông lỏng; lúc đó dã dượi buồn ngủ sẽ sớm bước chân vào.

Quân bình ngũ lực là một điều quan trọng thiết yếu mà thiền sư phải biết thấu đáo để hướng dẫn thiền sinh. Phương pháp căn bản nhất để quân bình và tái lập lại sự quân bình là tăng cường sức mạnh cho những lực còn lại, đó là chánh niệm.

4 & 5. Tránh Người Thiểu Trí, Thân Cận Bậc Thiện Trí

Yếu tố thứ tư và năm hỗ trợ cho trạch pháp giác chi là tránh xa người thiểu trí và thân cận bậc thiện trí. Thế nào là một bậc thiện trí? Thiện trí thức có thể là người học hỏi và thông hiểu kinh điển, cũng có thể là người có tâm trí sáng suốt, hiểu điều phải lẽ trái. Nếu thân cận với những người này, sự hiểu biết về lý thuyết của bạn sẽ gia tăng, và bạn sẽ có thể vun bồi cho mình một thái độ tri thức tốt đẹp. Nhưng có một loại thiện trí thức khác có thể đem lại sự hiểu biết và thông thái cho bạn ngoài phạm vi sách vở, đó là người ít nhất đã đạt được tuệ sinh diệt trong thiền minh sát. Ðó là tuệ thấy được sự sinh diệt của mọi hiện tượng giới. Một người chưa đạt được tuệ này không thể dạy thiền cho người khác được, bởi vì khi thân cận với họ, thiền sinh không thể được khích lệ để phát sanh trạch pháp giác chi.

6. Suy Tư Ðến Những Chân Lý Thâm Sâu

Ðiều hướng dẫn này, mới nghe, dường như đi ngược hẳn với phương pháp hành thiền, vì hành thiền là quán sát các hiện tượng danh sắc không qua suy nghĩ hay lý luận. Ðiều căn bản của sự suy tư ở đây là suy tư đến bản chất của các hiện tượng thân tâm dưới ánh sáng của minh sát như: ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), suy tư về các yếu tố và đặc tính của ngũ uẩn dưới khía cạnh phi nhân tính của chúng, nghĩa là chỉ có ngũ uẩn mà không có người, có ta trong đó.

7. Phải Hoàn Toàn Chú Tâm Vào Việc Phát Triển Trạch Pháp.

Yếu tố hỗ trợ quan trọng cuối cùng làm phát sanh trạch pháp là hoàn toàn dấn thân vào việc phát triển trạch pháp giác chi. Luôn luôn đem hết tâm trí mình vào việc phát triển trạch pháp và trí tuệ trực tiếp. Nhớ một điều là chẳng cần phải lý luận hay dùng trí thông minh của mình để chia chẻ hay phân tích kinh nghiệm của mình. Chỉ cần chăm chỉ hành thiền để gặt hái kinh nghiệm mới mẻ của thân và tâm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2015(Xem: 11737)
Tâm dục được xếp hạng trên tất các sắc tướng, gọi là Sắc Dục, mà mê đắm sắc đẹp đưa đến dâm dục là điều cốt yếu của mọi vấn đề trên cõi Ta Bà. Tham dâm dục thôi thúc trong lòng khiến con người phải hành động để được thoả mãn ham muốn. Khi cái luồng chân khí ái dục này dâng lên thì si ái tình, khi đi xuống thì tham nhục dục. Mà ái có nghĩa là yêu thương thuộc tình cảm với cảm giác cao thượng. Dục là sự si mê, thèm khát thể xác. Khi dâng lên khi hạ xuống bất thường thì bị tẫu hỏa nhập ma, thất tình lục dục, đưa đến hành động phi luân, phạm pháp, vô đạo tai hại khôn lường cho mình cho người. Dục gồm có lục dục hay ngũ dục. Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần; mắt thích nhìn những sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh êm dịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm những vị ngon, thân thích đụng chạm êm ái, ý thích nghĩ tới tham si. Ngũ dục là năm thứ ham muốn của người đời không dễ gì loại bỏ. Kinh Phật nói về Ác Dục, Niệm Dục: Chư hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục th
20/09/2015(Xem: 8326)
Hôm nay là ngày rằm, từ sáng sớm bà chủ đã ngỏ lời: “Hây, tối nay kính mời khách thưởng trà ngắm trăng với chúng tôi trong vườn nhà”. Khi ráng chiều vừa tắt, bà chủ đưa cho khách bộ Yukata (Kymono mặc mùa hè), một đôi tất trắng, một đôi guốc xỏ ngón và một cái hoa vải màu hồng nâu. Thấy khách lúng túng, hiểu ý, bà chủ ân cần hướng dẫn khách sử dụng từng loại. Bà chủ chia sẻ: “Mặc Yukata khó nhất và đẹp nhất là cái đai quanh thắt lưng”. Miệng nói, tay làm, bà giúp khách hoàn thiện cái đai này. Bà lại hồn hậu: “Búi tóc kiểu Nhật cũng không là việc dễ”, rồi đôi tay bà chủ thoăn thoắt, chỉ mươi phút mái tóc của khách đã được búi cao lại còn giắt thêm cái hoa vải màu hồng nâu sau gáy. Khách nghĩ, mình đã tươm tất lắm rồi, thì nghe bà chủ nhắc khéo: “Mặc Yukata đôi chân phụ nữ phải được bọc trong đôi vớ trắng và bước đi với đôi guốc xỏ ngón”. Nghe lời, khách mang vớ, mang guốc rồi thử bước đi; xong, khách thầm nhủ “mang đôi guốc này mà không té là điều kỳ diệuJ”.
19/09/2015(Xem: 9285)
Đối với người Phật tử, dù ở bất cứ phương trời nào, không phải chỉ mùa Vu Lan mới là thời điểm để người con Phật thể hiện lòng báo đức tri ân. Ân Chư Phật, ân Thầy Tổ, ân cha mẹ giáo dường, ân đàn na thí thí, ân xã hội, ân chúng sanh …. mà ân kia, đức đó phải luôn phát nguyện bằng thiện tâm: “Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài” Theo tinh thần trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm thì muôn người, muôn loài đều thầm lặng vì nhau mà sinh diệt. Cái này vì cái kia mà hiện hữu, cái này ra đi để cái kia tồn tại. Như lá rụng mà thực chẳng diệt, vì lá lại thành đất nuôi cây. Như mây tụ lại mà thực chẳng tan, vì mây chỉ chuyển hóa thành mưa tươi mát, tắm đẫm cỏ nội hoa ngàn ….
18/09/2015(Xem: 8874)
Được sự đồng ý của tác giả, Cư sĩ Diệu Nhung, Cư sĩ Tâm Thành và các Cư sĩ khác hùn phước ấn tống và gửi tặng sách GIA TÀI CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC (Thực tập Kham nhẫn) phiên bản tiếng Việt cho các đối tượng sau đây: 1. Đọc giả người Việt đang sinh sống và làm việc trong khu vực VIỆT NAM và CHÂU Á. 2. Các tu sĩ Phật giáo người Việt không phân biệt tông phái. 3. Các cư sĩ người Việt đang nghiên cứu và thực tập Phật giá
13/09/2015(Xem: 7783)
Giáo dục là gì? Hiện nay khó mà định nghĩa dứt khoát; có rất nhiều định nghĩa khác nhau, ví dụ: Như trong cuốn "The Educator’s encyclopedia" của ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và M.M. Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ Phương Đông đến thái độ Phương Tây và trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: "Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người". (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản trẻ năm 1971).
12/09/2015(Xem: 7274)
Những ngôi Chùa nổi tiếng ở VN
12/09/2015(Xem: 16804)
Nếu có người nào đó bảo rằng: “Tại sao Thầy viết nhiều và không chịu nghỉ ngơi, hãy để dồn viết một tác phẩm có giá trị vẫn hay hơn là những bài tạp ghi như vậy“ thì tôi sẽ trả lời rằng: “Nếu viết được thì cứ viết, chứ chờ viết hay mới viết thì biết bao giờ mới viết được một bài. Có nhiều người chờ cả đời không viết, đến khi muốn viết thì không còn sức khỏe nữa“. Quả cuộc đời nầy nó có nhiều cái khó như thế, mà chúng ta thì không tự làm chủ thời gian cũng như sức khỏe của mình được. Do vậy tôi chủ trương rằng: “Cái gì làm được trong ngày hôm nay thì hãy nên làm, chứ chờ đến ngày mai thì nhiều khi ngày mai ấy không còn ở lại với mình nữa. Dầu ta có già, có sống lâu bao nhiêu năm trên thế gian nầy đi nữa, rồi một ngày nào đó chúng ta cũng phải ra đi, mà thời gian thì chẳng thương tiếc gì ta, dầu ta có cố níu kéo nó lại. Ngay cả những người thân trong gia đình, mình cứ ngỡ rằng họ luôn ở gần mình và họ thuộc về một phần của cuộc sống mình, nhưng điều ấy ta đã lầm. Cuối cùng rồi chẳng có
12/09/2015(Xem: 9231)
Phật Giáo Việt Nam và vấn đề bảo vệ mội trường
10/09/2015(Xem: 10446)
Mẹ tôi năm nay 83 tuổi, mẹ đã bị bệnh mất trí nhớ (dementia) trong vòng năm năm nay. Bốn năm trước đây, khi tôi gặp mẹ, cánh cửa của căn chung cư mẹ tôi ở đã mở toang, và mẹ tôi đã đi lang thang ra ngoài đường. Bệnh mất trí nhớ của mẹ tôi phát ra rất nhanh, nhanh đến nỗi mẹ đã không còn nhớ đến ai cả.
06/09/2015(Xem: 9341)
Các nhà sư thuyết giảng cho người thế tục là chuyện bình thường, thế nhưng nếu một nhà sư đứng ra thuyết giảng cho các nhà sư khác thì quả là một chuyện hiếm hoi khi gặp. Dưới đây là một bài nói chuyện của nhà sư Thanissaro Bhikkhu với các bạn đồng tu trong một ngôi chùa mà nhà sư này có ý gọi chung các ngôi chùa là "bệnh viện của Đức Phật". Bài nói chuyện được trích dẫn từ một tập sách mang tựa "Thiền định 1: Bốn mươi bài thuyết giảng Đạo Pháp" (Meditation 1: Forty Dhamma Talks, Access to Insight, 2003), gom góp các bài thuyết giảng của ông. Thanissaro Bhikkhu là một nhà sư người Mỹ tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật Giáo Theravada, một nhà sư thật đáng kính, uyên bác và tích cực, vô cùng xứng đáng để hàn huyên với các nhà sư và thuyết giảng cho tất cả chúng ta nghe.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]