Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Phước và họa

21/01/201205:42(Xem: 10472)
05. Phước và họa
CÓ TRÍ TUỆ
LÀ BIẾT NHƯ THẬT VỀ…
Chân Hiền Tâm

Phước và họa

«Cuộc sống trao cho ta những món quà rất bất ngờ, dưới dạng cơ hội hay trong màu áo biến cố. Hãy đón nhận nó bằng vị thế của một người hiểu biết và biết làm chủ bản thân». Một câu nói khá đơn giản, nhưng mang đậm triết lý sống có thể giúp mình an vui trước những biến động của cuộc đời.

Đa phần ai cũng muốn sự tốt lành đến với mình hơn là bất hạnh. Ta đến chùa, tu hành, làm phước cũng để được cái phước, né cái họa. Song không phải ai cũng đạt được hoàn toàn những điều mình mong muốn. Thường thì hạnh phúc và khổ đau đan xen. Khi hạnh phúc thấy hân hoan. Lúc khổ đau lại vượt không nỗi. Một số đã tự tử. Đó là do chúng ta không đủ hiểu biết cũng như không thể làm chủ bản thân trong cả hai tình huống.

Ít ai biết được trong họa có phước, trong phước có họa. Phước, có khi là nhân tạo ra họa. Họa, có khi là nhân tạo ra phước. Đạo Đức Kinh nói: «Họa chừ, là nơi tựa nương của phước. Phước chừ, là chỗ ẩn nấp của họa». Họa phước khó lường, nếu không biết mà cứ một bề chấp nhất vào phước, thì chưa chắc đã hết khổ nạn.

I. HỌA TRONG PHƯỚC

Trong kinh Niết Bàn, Phật kể câu chuyện sau:

Nhà kia, có một người phụ nữ bước vào, người vừa xinh đẹp lại đeo ngọc ngà châu báu khắp cả thân. Chủ nhà thấy vậy, liền hỏi:

- Nàng tên là gì, ở đâu?

- Tôi là Công Đức Đại Thiên thưa ngài.

Chủ nhà lại hỏi:

- Nàng đến đây làm gì?

- Chỗ nào tôi đến, tôi có thể cho các thứ vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ…

Chủ nhà nghe thế vui mừng hớn hỡ thầm nghĩ: «Do ta đầy đủ phước đức nên nay nàng này đã đến nhà ta». Nghĩ rồi bèn đốt hương, trải thảm hoa, cung kính đón mừng.

Chưa đâu vào đâu, bỗng nhìn ra thì thấy một nàng áo quần rách tươm, da thịt nứt nẻ, sắc mặt xám mét, dơ dáy, hôi hám đang chực chờ ở cửa. Chủ nhà thấy vậy liền bước ra hỏi:

- Nàng tên là gì, ở đâu?

- Tôi tên Hắc Ám. Tôi đến chỗ nào có thể làm cho nhà đó hao tài, tốn của.

Chủ nhà nghe xong, bèn cầm dao dọa:

- Làm ơn đi giùm. Nếu không ta sẽ chém.

Cô gái nói:

- Ông thật ngu si, chẳng có trí tuệ.

Chủ nhà liền hỏi:

- Sao bảo ta ngu si không có trí tuệ?

Cô gái trả lời:

- Người xinh đẹp đứng trong nhà kia, là chị tôi. Tôi thường đi chung với chị. Nếu ông đuổi tôi thời ông cũng đuổi chị.

Chủ nhà trở vào hỏi Công Đức Đại Thiên:

- Ngoài cửa có cô gái nói là em của nàng có đúng không?

- Thật là em gái tôi. Tôi đi chung với nó chưa có lúc nào rời nhau, dù tôi thường mang đến sự tốt đẹp còn nó mang lại sự xấu ác. Tôi thường làm việc lợi ích, còn nó thì mang đến sự suy hao. Nếu ai yêu tôi thì cũng phải yêu nó. Nếu cung kính tôi cũng phải cung kính nó.

Chủ nhà liền nói:

- Nếu có cả sự tốt lẫn xấu như vậy, thời ta chẳng cần. Mời hai nàng đi cho.

Hai chị em cùng đi, dắt nhau đến nhà một người nghèo. Người nghèo này lòng rất vui mừng, liền nói:

- Từ nay trở đi, xin hai nàng ở luôn nhà tôi.

Công Đức Đại Thiên liền hỏi:

- Chúng tôi vừa bị người xua đuổi, sao ông lại mời chúng tôi ở lại?

Người nghèo nói:

- Vì nàng nên tôi phải kính cô kia. Vì thế nên tôi phải mời cả hai ở lại.

Câu chuyện nói lên thực lý đối đãi ở thế gian. Có sanh thì có tử, có thiện thì có ác, có họa thì có phước, có ngắn thì có dài, có đẹp thì có xấu v.v… «Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không». Mình muốn thứ này thì có nghĩa là mình phải chấp nhận luôn thứ kia một khi nó đủ duyên, nhất là đối với vấn đề sinh tử.

Cô gái nói: «Ông không có trí tuệ», là nói ông không thấy được thực lý Duyên khởi đang chi phối thế giới này. Vì không thấy, nên ông muốn bắt cái này mà xua cái kia. Thánh nhân do thấy được thế đối đãi ấy, nên không mong phước cũng chẳng sợ họa. Phước tới không vui, họa tới không buồn. An nhiên, bình thản, cũng không thấy đó là phước hay họa. Kinh nói: «Đại Bồ-tát cũng vậy, chẳng nguyện sinh cõi trời, vì sinh thời có tử. Thế nên cả hai đều bỏ, không chút tâm luyến ái. Kẻ phàm phu chẳng biết lỗi lầm khổ hoạn của già, bệnh, chết nên tham luyến sinh tử».

Sách Hoài Nam Tửbàn rằng: «Họa là gốc của phước. Phước là gốc của họa. Họa phước luân chuyển tương sinh. Sự thay đổi ấy không thể nhìn thấy. Chỉ có thể biết khi cái quả của nó hiện hình. Do đó, khi được phước, chớ quá vui mừng mà quên đề phòng cái họa sẽ đến. Khi gặp họa, cũng chớ buồn phiền đau khổ đến nỗi tinh thần phải tổn hại. Việc đời hết may tới rủi, hết rủi tới may khó mà lường hết. Nên bắt chước Tái Ông mà giữ sự thản nhiên đối với những biến đổi thăng trầm trong đời».

Tái Ông, là một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, có nuôi một con ngựa. Một hôm ngựa chạy qua nước Hồ mất dạng. Người trong xóm nghe tin đến chia buồn. Ông lão điềm nhiên nói:

- Biết đâu con ngựa chạy mất ấy lại là điều tốt cho tôi.

Vài tháng sau, con ngựa ấy quay về, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao khỏe. Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng, cũng nhắc lại lời ông lão đã nói khi trước. Ông lão cũng chẳng vui mừng, chỉ nói:

- Biết đâu việc được ngựa này sẽ dẫn đến tai họa cho tôi.

Việc ấy chẳng sai. Con trai ông lão rất thích cỡi ngựa, thấy ngựa Hồ cao khỏe thì thích lắm, liền nhảy lên lưng phóng chạy. Không ngờ, ngựa Hồ chưa thuần nên nhảy loạn xạ. Cậu con bị hất xuống đất, gãy xương đùi thành tật lớn. Người trong xóm đến chia buồn. Ông lão lại nói:

- Biết đâu nhờ họa này mà được phước khác.

Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung Nguyên. Trai tráng vùng biên đều phải xung vào quân ngũ chống giặc, chết sạch. Cậu con trai nhờ chân gãy không bị xung quân, nên còn sống.

Lời bàn trên cũng khá hợp với người tu thiền trên mặt thực hành: «Tám gió thổi không động». Lợi đến không động mà suy đến cũng không động. Vì tất cả đều do tương đãi mà có, không có chất thật.

Hiện thực, không phải khi nào có phước là liền có họa, hay có họa là liền có phước. Có khi phước đi liền với họa mà có khi không đi liền, vì nó còn được hạnh nghiệp hiện đời của mình quyết định. Ngay phước ấy mà tỉnh giác, tu tạo thêm phước thì phước thêm phước. Ngay phước ấy mà tạo ác nghiệp thì phước sinh họa.

Kinh Thánh của Thiên Chúa Giáo nói: «Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa». Thánh Gia-cô-bê nói: «Hỡi những kẻ giàu có, các ngươi hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống đầu các ngươi».

Nói như thế, không có nghĩa giàu có là lỗi. Nếu giàu có là lỗi, thì Phật cũng như Chúa Jêsu đã không khuyên mọi người bố thí. Nhưng chư vị đều khuyên mọi người bố thí thì biết cái quả giàu sang không phải lỗi, thậm chí còn là phước, vì nó là kết quả của những thiện nghiệp. Điều mà Kinh Thánh muốn nói đến, chính là mầm họa tiềm ẩn trong sự giàu sang ấy.

Nếu giàu sang mà mở lòng bố thí rộng rãi, không kiêu ngạo, không dùng đồng tiền vào những chuyện hại người hại vật, lại dành thì giờ tìm hiểu kinh sách để biết cái gì nên làm, cái gì không nên làm, thì sự giàu sang ấy không đưa đến những họa hoạn và bất như ý cho mình. Nhưng thường thì khi giàu sang rồi, mọi thứ liền đổi khác.

Việc mà người giàu có hay vướng nhất là kiêu mạn. Kiêu mạn, thể hiện qua nhiều cách: Coi thường người khác, dùng miệng lưỡi lấn át người, không cần nghe lời khuyên của ai, ai không làm mình vừa lòng liền tẩy chay v.v… Kiêu mạn là nhân của ác nghiệp, nên nó là một loại phiền não phá hoại công đức người tu rất nhiều.

Ngoài kiêu mạn ra, cuộc sống của mình còn thêm nhiều thay đổi. Không có tiền thì ăn gì cũng được. Có tiền rồi, mọi thứ thành cầu kỳ. Thay vì ăn đồ giết sẵn ngoài chợ, giờ phải là đồ tươi sống, giết liền ăn liền. Trước, có thịt ăn là may, giờ phải là óc khỉ, bồ câu quay, bào thai người v.v… Những việc như thế đều là cái nhân của tai ương và hoạn nạn.

Có tiền, cũng dễ sinh nhiều tật xấu như rượu chè, cờ bạc, trai gái v.v… là những thứ mà nếu không có tiền, mọi việc bị hạn chế hơn. Chưa kể một khi đời sống cầu kỳ đã trở thành nhu cầu cần thiết của mình, thì việc kiếm sao cho ra tiền trở thành mục đích tối hậu. Trong guồng máy danh lợi ấy, không thể không gây nghiệp ít nhiều. Đó là cái nhân của họa hoạn khi đủ duyên. Họa trong phước, phướctrong họa là đó. Thành giàu có mà không có trí tuệ thì chưa hẳn đã là phước, mà chính là cái nhân của hoạn nạn. Đó là lý do, chúa Jêsu và thánh Gia-cô-bê cảnh cáo các con chiên giàu có của ngài.

Mới thấy, những vị đang thành công giàu có mà chịu đến chùa, chịu đọc sách nghe băng giảng để tăng sự hiểu biết, rồi sửa đi những lỗi lầm của mình, lại hạn chế dần ăn uống ngủ nghỉ tập trung cho việc tu tập, nhất định không phải là hạng phàm phu bình thường.

Chuyện ngoài đời là thế, trong đạo cũng có nhiều thứ để bàn.

Tự lợi và lợi tha là hai mục chính của người tu Phật. Tự lợi, thì không có gì để bàn. Sang phần lợi tha, thành quả công đức hiển phát bắt đầu từ đó. Có khi lợi tha rồi, trước sau vẫn như nhau. Nhưng có khi lợi tha rồi thì y báo rực rỡ, tài vật sung mãn, chúng tôn sùng đông đúc. Việc gãy đổ cũng từ đó mà ra. Điều này đã xảy ra trong thực tế. Một vài vị trông có vẻ lừng lẫy hơn cả, lại là những vị sụp đổ mau chóng hơn ai hết. Là do không ý thức được cái «họa trong phước, phước trong họa»này đây. Không ý thức nên khi quả phước đến, liền buông lỏng giới luật, để cho kiêu mạn chi phối, chỉ thích nghe lời tán thán, không thích nghe lời nghịch tai dù nó mang lại lợi ích cho mình v.v… Xem ra, thành công đáng sợ hơn thất bại rất nhiều một khi ta thiếu tỉnh giác.

Cho nên, khi được một thành quả gì, cần phải tỉnh giác với nó hơn là hí hửng hay tham đắm. Phải nhớ trong phước có sẵn cái mầm của họa hoạn. Tỉnh giác thì mới không bị thành quả ấy dẫn chạy, cũng không vì cái thành quả ấy mà thay đổi tính tình, gây tạo những nghiệp nhân bất thiện, khiến mầm họa nẩy sinh.

II. PHƯỚC TRONG HỌA

Một bác nông dân có chú lừa chẳng may bị lọt xuống một cái giếng cạn. Chú lừa kêu la thảm thiết mà bác cũng chẳng biết làm cách nào. Cuối cùng, bác nông dân nghĩ cách lắp miệng giếng cho xong. Nghĩ rồi, bác cùng láng giềng xúc đất bỏ xuống. Chú lừa thấy chủ đổ cát xuống chôn mình, càng la dữ. Nhưng rồi chú bỗng im bặt. Mọi người nhìn xuống, cứ một lớp cát đổ xuống, chú lại giũ người cho cát rơi khỏi mình và giẫm chân lên. Cứ thế lớp đất cao dần và lừa ra khỏi miệng giếng.

Trong cuộc đời, thứ mình cho là xấu chưa hẳn đã là xấu. Thứ mình cho là tốt, chưa hẳn đã là tốt.Quan trọng là mình có như chú lừa kia, biết giũ mình ra khỏi những bất lợi, và dùng những bất lợi đó như một bàn đạp để vượt qua những khó khăn trong hiện tại hay không.

Lúc tôi còn mang cái nghiệp buôn bán, trong việc làm ăn có khi phải vay mượn để ứng tiền mua hàng đặt trước. Một lần, vay đâu cũng không được. Người, bình thường hay cho mình vay, giờ cũng không cho. Phải nói là rất bực vì thấy mất cái lợi trước mắt, bực thời vận của mình, bực người khó khăn với mình. Nhưng cuối cùng mới vỡ lẽ: Nếu vay được thì đúng là ôm đầu máu. Không biết lấy đâu ra tiền mà trả nợ. Bởi tay chủ tàu đã cầm tiền biến mất. Thiên hạ bị gạt nhiều vô kể. Lúc đó mới thấy biết ơn kẻ không cho mình vay tiền.

Còn nhiều việc khác nữa, khiến mình có kinh nghiệm hơn với những được mất ở thế gian. Ừ, được thì tốt, không được chưa chắc đã xấu. Cứ hành thiện và sống thiện là được. Nghiệp thiện mình làm sẽ tự có quả của nó khi đủ duyên. Ở đời, khó mà biết cái gì là xấu, cái gì là tốt …

Thường, những người có đủ phước đức mới có thể «Muốn cái gì liền ra cái đó. Tính cái gì, liền thành cái đó». Tôi không được cái phước ấy. Không tính thì yên mà tính thì nó không ra, hoặc ra trở ngược. Mở đầu cho sự «phản bội» ấy là cái chết của cha khi tôi mới 12 tuổi. Mọi mong muốn dự định to lớn cho tương lai té nhào. Việc «phản bội» ấy cứ lặp đi lặp lại liên tục trên từng sự việc nhỏ nhoi, khiến tôi phải qui nạp chúng thành một lý thuyết sống cho mình: Cần phải dừng suy nghĩ, mong muốn cũng như mọi tính toán cho tương lai hầu bảo toàn tánh mạng. Vì thế, bất cứ một lo toan nào cho tương lai khởi lên, tôi đều gạt qua một bên, chỉ biết làm tốt việc hiện tại. Không ngờ, cái tập ấy lại phù hợp với pháp «Biết vọng không theo» mà Hòa thượng chỉ dạy. Cũng phù hợp luôn với những gì mà Tổ Hoàng Bá đã nói: «Cứ quên mong muốn, Phật sẽ hiện tiền». Thế là cứ theo cái đà ấy mà đi không do dự, cũng không mấy khó khăn đối với việc phải làm.

Song vào đạo rồi, mới biết chỉ « gạt qua » thôi chưa đủ, cần vận dụng trí tuệ soi chiếu để những gì đã « gạt qua » đó không tồn động trong tiềm thức. Xem ra cái họa ngoài đời lại là cái phước trong đạo của mình.

Bù lại, người bạn tôi, vì tính cái gì cũng thành, nên rồi tính mãi. Cứ theo dòng đời mà đi không thể dừng nghỉ. Bỏ sở đoản thì dễ, bỏ sở trường rất khó. Nghèo khó hoạn nạn vậy dễ tu. Danh vọng tiền bạc đang lên, bỏ thành công không phải dễ. Kẻ bỏ được, phải nói có chủng thượng căn. Nói chủng, là nói đến cái mầm. Muốn sinh sôi nẩy nở còn cần chuyên tâm.

III. TỔNG KẾT

Phước họa ở thế gian là những hiện tượng tương đối, tương sinh. Tương đối là đối nhau. Tương sinh là sinh nhau. Vì vậy, hành thiện để có quả báo tốt là việc phải làm, nhưng không nên chấp trước vào đó. Muốn vậy ta cần có trí tuệ và định lực. Trí tuệ, để soi thấu được bản chất của vạn pháp. Định lực, mới có thể dừng đi những việc không nên làm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/04/2021(Xem: 4002)
Đêm yên tĩnh. Nhìn ra khung kiếng cửa sổ chỉ thấy một màu đen, đậm đặc. Cây cối, hàng giậu, lẳng hoa, bồn cỏ, ghế đá, và con đường ngoằn ngoèo trong công viên, có thể sẽ khó cho khách bộ hành nhận ra vị trí và thực chất của chúng. Cây bên đường có thể bị nhầm là kẻ trộm đối với cảnh sát, và sẽ là cảnh sát đối với kẻ trộm (1). Giây thừng hay con rắn. Con chim hay con quạ. Con sóc hay con mèo. Người hay quỉ. Mọi vật đều một màu đen. Trong bóng đêm, mọi thứ đều dễ trở nên ma mị, huyễn hoặc.
27/04/2021(Xem: 3824)
Cũng như tình trạng nghiêm trọng của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi chỉ có thể theo đuổi một trong ba trường hợp – chiến đấu, bỏ chạy, hay đàm phán. Ngài có thể tập họp lại đội quân ít ỏi, vũ khí thô sơ, rèn luyện sơ sài và đưa họ đối mặt với một lực lượng quân sự mạnh mẽ vượt trội, biết rằng ngài gần như chắc chắn đang kết án tử hình cho đội quân của ngài và xứ sở của ngài cuối cùng sẽ bị đánh bại. Ngài có thể trốn chạy khỏi đất nước, nhưng như vậy sẽ để lại dân tộc ngài không có lãnh đạo và vẫn chịu sự thương hại của những kẻ xâm lược. Hay, ngài vẫn ở lại Tây Tạng và cố gắng để đàm phán một thỏa hiệp với Tàu Cộng để bảo vệ dân tộc ngài và nền văn hóa của họ. Để thực hiện một quyết định đúng đắn, ngài phải biết hơn về Trung Hoa.
27/04/2021(Xem: 5995)
Được sự cho phép của lãnh đạo chính quyền và sự trợ duyên của nam nữ Phật tử, câc nhà hảo tâm khắp nơi, chùa Diên Khánh đã khởi công trùng tu ngôi Tam Bảo vào ngày 12/3 năm Tân Sửu, nhưng kinh phí còn quá khiêm tốn, nên việc tái thiết trùng tu ngôi chánh điện đang dang dở, trì trệ... Nay nhà chùa một lần nữa tha thiết đăng lại bức "Thư Ngỏ", kính gửi lời đến quý đạo hữu, nhà hảo tâm, Phật tử gần xa để công việc trùng tu sớm được hoàn thành.
19/04/2021(Xem: 11217)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
15/04/2021(Xem: 9181)
Bài viết này (phần B) cập nhật và tóm tắt buổi trình bày về bài viết "Tản mạn về tiếng Việt và Hán Việt: tại sao Trung Quốc dùng danh từ khoái 筷 còn Việt Nam dùng đũa (trợ 箸)?" tại hội thảo UNC2021_0116 tại Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN (sẽ diễn ra vào ngày 24/4/2021). Các trang bên dưới được trích từ các trang của Power Point Presentation, dựa vào bài viết đã đăng và dán lên đây theo dạng word cho dễ đọc hơn.
15/04/2021(Xem: 6687)
Chúng ta thường biết là Vi Diệu Pháp là Tạng của Nguyên Thủy áp dụng tu học ngày nay rất phổ biến. Tạng này cũng nói về Tâm và nghiên cứu sâu rộng. Riêng Đại Thừa thì có Duy Thức Luận cũng tương tự chỉ khác là có 2 thức Mạc Na Thức số 7 và Tạng Thức số 8. Vi Diệu Pháp là do Xá Lợi Phất giảng còn Duy Thức Luận là do Vô Trước Thế Thân giảng, tất cả đều do Bồ Tát mở rộng ra mà thôi và là Luận tức là luận bàn do qui từ nhiều kinh lại và không do Phật giảng. Xá lợi Phất giảng Vi Diệu Pháp do Phật giảng trên cõi trời cho mẹ của Phật còn Vô Trước Thế Thân giảng là do Phật Di Lạc giảng cũng trên cõi trời. Bài viết nầy chủ yếu đưa ra khái luận về Tâm Thức theo hai phái Nguyên Thủy và Đại Thừa dựa vào Phân Tâm Học ngày nay. Chúng ta nghiên cứu trên căn bản tâm lý học về tạng Vi Diệu Pháp và Duy Thức Luận.
15/04/2021(Xem: 7679)
Chẳng bao lâu sau khi được xác định như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, cậu bé Lhamo Thondup được cha mẹ đưa đến tu viện Kumbum để bắt đầu việc rèn luyện tôn giáo sơ khởi và chờ đợi trong khi những chuẩn bị cho chuyến du hành đến Lhasa được thực hiện. Mười tám tháng sau, việc cung nghinh Đức Đạt Lai Lạt Ma mới đã bắt đầu cho cuộc hành trình ba tháng đến thủ đô của quốc gia. Một khi đến đó, ngài sẽ đăng quang như lãnh tụ tinh thần của dân tộc Tây Tạng, và sau hàng năm rèn luyện lâu hơn, ngài cũng là lãnh tụ chính trị của họ. Đúng với dự đoán của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, Đức Đạt Lai Lạt Ma mới cuối cùng sẽ bị áp lực phải lãnh đạo quốc gia của ngài chống lại những đe dọa ngoại tại.
15/04/2021(Xem: 4984)
Năm nay, nhân dân Vương quốc Phật giáo Campuchia sẽ tổ chức Tết Cổ truyền Chôl Chnăm Thmây từ các ngày 14 đến 16 tháng 4 năm 2021, một trong những lễ hội lớn nhất nước, nhằm ngăn chặn sự lây lan đại dịch Covid-19, với khẩu hiệu “Mừng Năm mới tại tư gia” (New Year at Home). Vào lúc 4 giờ sáng ngày 14 tháng 4, đánh dấu sự kết thúc của năm Phật lịch 2564 và bắt đầu Tân niên Phật lịch 2565, Âm lịch ngày 3 tháng 3 năm Tân Sửu. Thiên thần của Tân niên năm nay là Mondea Devy, con gái thứ tư của Kabel Moha Prum.
15/04/2021(Xem: 5045)
H.T Thích Trí Thủ Như nhiều Phật tử người Miền Trung, người viết cũng rất thích gọi Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ bằng “ Ôn Già Lam”, để phần nào đó cảm nhận được sự Kính trọng và gần gũi, thân thiết bên mình trong cuộc sống tu học. Trong bài viết này xin được dùng hai từ Hòa Thượng ( H.T ). Đối với anh em thanh niên Phật tử chúng tôi ngày trước, mơ ước được gặp và được nghe những vị lãnh đạo Phật giáo nói chuyện là một mơ ước rất lớn, khó có cơ hội trở thành hiện thực. Những khi làm hàng rào danh dự bảo vệ, nhìn được rất gần các vị mỗi khi đi ngang qua đã là một phước báu vô cùng rồi. Nếu muốn được nghe các vị giảng thì mỗi chiều chủ nhật đến giảng đường chùa Ấn Quang để thỏa một phần nào niềm mơ ước ấy. Xem ra ngày trước Phật tử cũng còn có nhiều cơ duyên gặp gỡ các ngài quá!
12/04/2021(Xem: 4338)
Ngài Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, Tiến sĩ Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tiến sĩ Azza Karam, Tổng Thư ký tổ chức Các tôn giáo phụng sự hòa bình và tất cả các nhà lãnh đạo kính mến! Chúng tôi rất hanh hạnh được trở thành một phần trong cuộc đối thoại này, giữa các Tôn giáo vì Hòa bình và Tổ chức Y tế Thế giới. Trong một năm qua, chúng tôi ngưỡng mộ vai trò của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đối với vai trò lãnh đạo, mà tổ chức này đã thể hiện trong việc giữ cho các cơ quan Chính phủ cũng như công dân trên thế giới mở rộng các kênh liên lạc. WHO đã chứng minh rằng nó thuộc về toàn bộ thế giới. Có một câu trích dẫn nổi tiếng của Kinh thánh Hindu giáo "Bhagavad Geetha" của Chúa Krishna “Yoga Kshemam Vahamyaham” có nghĩa là “Tôi chăm lo sự thịnh vượng và hạnh phúc của chúng sinh” (I look after prosperity and wellbeing of living beings). Theo quan điểm của tôi, WHO đang nỗ lực hết mình vì cuộc sống hạnh phúc dưới ánh Mặt trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]