Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thư Gởi Đệ Tử 02

25/12/201112:52(Xem: 6258)
Thư Gởi Đệ Tử 02
Thư Gởi Đệ Tử
Tác giả: Viên Minh

Trên đời này chẳng có cái gì toàn vẹn, nên rút lại, tất cả mọi lựa chọn đều giống nhau.

Tổ Đình Bửu Long, đầu mùa An Cư 2545.

LP. con.

Thầy rất mừng là con quyết định ở lại Myanmar thêm để hành thiền định và thiền quán. Bất cứ lúc nào có cơ hội thì việc khám phá thế giới thực nghiệm của thiền, nhất là thiền định, đều đáng được cứu xét ưu tiên. Vì nếu sau này con dấn thân vào con đường hoằng pháp thì Phật sự đa đoan khó mà có thì giờ để yên tâm chỉ tịnh.

Còn việc thành lập hội chúng Tỳ-khưu Ni đối với Phật Giáo Nam Tông Việt Nam thì cả một vấn đề không đơn giản chút nào. Hiện nay Nam Tông trên thế giới chỉ có Tỳ-khưu Ni ở Tích Lan, mà Tích Lan cũng có nhiều phái nên chưa hẳn đã được tất cả các phái chấp nhận. Các nước Nam Tông khác chưa có Tỳ-khưu Ni, ngoại trừ một chùa Thái ở Mỹ có Tỳ-khưu Ni và Việt Nam chỉ mới có sư cô Trí Hạnh, cũng ở Mỹ.

Ở Việt Nam, về vấn đề này thì nhóm những người chống đối giữ lập trường rằng Tỳ-khưu Ni đã thất truyền nay không thể có hai hội chúng để cho thọ giới lại. Một số vị khác không quan tâm, sao cũng được. Một số vị tương đối dễ chịu. Tín đồ thì phần lớn chỉ có thái độ theo thầy mình chứ chắc là không quyết liệt lắm.

Tập thể tu nữ thì có lẽ lớp già không thích. Còn lớp trẻ thì tùy vào hoàn cảnh của mỗi người.

Đối với ngài Tăng Trưởng, nếu được thuyết minh có lý Ngài sẽ dễ dàng chấp nhận, nhưng lúc đó lại đặt Ngài vào tình trạng chống đối của một số tăng ni.

Đứng về phương diện tu hành thì hình thức nào cũng không thành vấn đề. Chỉ có tâm tu và sự tu chứng mới là yếu tố quyết định. Cư sĩ, Sadi, Tỳ-khưu, Tỳ-khưu Ni đều bình đẳng trước sự tu chứng trên đường giác ngộ giải thoát. Một người cư sĩ hành Tứ niệm xứ nghiêm túc vẫn được Đức Phật gọi là Tỳ-khưu, vì hình như Đức Phật chỉ chú trọng đến nội dung tu tập khi dùng từ này. Về sau, khi giới luật đã hình thành thì từ này mới trở nên có ý nghĩa là giới phẩm.

- Về phương diện hình thức thì tùy thuộc vào tính cách của mỗi người, tùy thời đại và bối cảnh mà người đó đang sống. Có lẽ vì vậy mà Đại Thừa vận dụng thêm Bồ Tát Giới, Nhật Bản vận dụng thêm Tân Tăng và thầy thì đã tạm thời cho một số tu nữ để tóc hầu khai thông một số vướng mắc do điều kiện khách quan đem lại.

Nếu như người ta có thể tùy duyên bất biến thì cứ tùy duyên để chấp nhận một hình thức nào đó cho phù hợp với con người, thời đại và hoàn cảnh, tức là “tùy thuận chúng sanh vô quái ngại, Niết Bàn sinh tử thị không hoa”vậy thôi.

- Về phương diện tùy dụng thì mỗi hình thức, Tu nữ hay Tỳ-khưu Ni đều có hai mặt lợi và hại.

Tu nữ có lợi điểm là ít ràng buộc vào hình thức giới luật (350 giới) mà trong thời buổi này khó có thể giữ trọn vẹn. Giớí luật, nếu hiểu như những điều răn cấm thì dễ đưa đến phấn đấu căng thẳng (để đừng sai phạm), hoặc ăn năn cắn rứt (khi bị sai phạm), hoặc tự mãn ngã mạn (khi không sai phạm). Những điều này đều là trở ngại cho hành trình đi vào thế giới chuyển hoá tâm linh cao việt hơn. Còn giới luật do tự ý thức, do cẩn thận tế nhị mà có thì chỉ cởi mở chứ không ràng buộc, chính vì lý do đó mà cư sĩ sống đúng chánh niệm tỉnh giác được Đức Phật gọi là Tỳ-khưu mà không cần thọ Đại Giới.

Nhược điểm của tu nữ là chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội đưa đến những hậu quả như đời sống bị cô lập, bị xem như cư sĩ hay tịnh nhân, khó góp phần vào việc hoằng pháp độ sinh, khó có tiếng nói trên diễn đàn quốc tế, khó có uy tín trong đại chúng, v.v…

Tỳ-khưu Ni thì ngược lại. Tuy nhiên sự so sánh này cũng chỉ tương đối thôi vì còn tùy thuộc vào khả năng của mỗi người. Vị tu nữ dạy thiền cho sư Dhammajaya trụ trì trung tâm Dhammakāya đã được trọng vọng ngang hàng với các thiền sư. Bà Acharn Nep là một vị thiền sư nổi tiếng. Nghe nói Tây Tạng chỉ có Sadi ni nhưng nhiều người trong số họ có học vị cao và trở thành giáo sư đại học ở các nước Âu Mỹ, v.v…

Trở về hoàn cảnh Việt Nam, Nam Tông đã kém thế mà tu nữ lại là … yếu thế nhất trong Nam Tông nên chắc chắn là bị thiệt thòi nhiều. Vì vậy từ lâu thầy đã có hướng nâng đỡ tu nữ như lập Ni viện, dạy học, cho du học, v.v…

Thực ra nếu chỉ lo tu học hoặc làm một số công tác như viết lách, dịch thuật, dạy học nội bộ thì không cần hình thức gì cho rườm rà phiền toái. Càng ẩn danh thì sự tu hành và làm việc đạo càng ít gặp hệ lụy hơn.

Nhưng có một số trường hợp đặc biệt cần mặt nổi để tầm hoạt động rộng hơn ngoài xã hội và tất nhiên cũng đem lại nhiều lợi ích đối ngoại hơn, lúc đó cần phải có Tỳ-khưu Ni mới được. Do đó thầy sẵn sàng chấp nhận hình thức này với những đề nghị giúp hoá giải thái độ đối lập gay cấn như sau:

- Nên thọ giới ở nước ngoài như giới đàn Tỳ-khưu Ni Tích Lan chẳng hạn.

- Nếu ở nước ngoài thì giúp đỡ các chùa Nam Tông hải ngoại đang thiếu nhân sự, như trường hợp sư cô Trí Hạnh, để khi đủ duyên mới về thì càng tốt.

- Xem đó chỉ là hình thức trên danh nghĩa khi đối ngoại, còn đối nội vẫn là Tu nữ. Nghĩa là không hình thành cái ngã Tỳ-khưu Ni để tự chuốc rắc rối. Hơn nữa, nếu theo đúng những điều kiện mà sư thúc Hộ Pháp nói thì rất khó mà có một giới đàn đủ yếu tố để thành tựu Tỳ-khưu huống chi là Tỳ-khưu Ni. Có lẽ khi chấp nhận lập giới đàn Tỳ-khưu Ni ở Tích Lan, hoặc Thái Lan ở Mỹ, các vị chủ trương dường như cũng biết như vậy nhưng đành phải tìm cách vận dụng vì lợi ích trên danh nghĩa hơn là quan tâm đến việc thành tựu thực hay không.

Chính bản thân thầy cũng không quan tâm rằng mình có thành tựu là Tỳ-khưu hay không. Không thành tựu có khi còn tốt hơn vì thầy tự thích mình vượt qua chính mình hơn là phấn đấu để ghép mình vào một cái khuôn lý tưởng đã định sẵn. Nếu vậy việc tính hạ lạp không còn gì quan trọng, nó chỉ có giá trị đối ngoại, còn đối nội thì không có gì thay đổi. Giống như LN. thọ giới đàn Tỳ-khưu Ni ở giới đàn Ấn Quang cách đây đã mấy năm nhưng về nhà vẫn là tu nữ cho nên đâu có gì là trở ngại.

Hơn nữa, nếu chỉ xem Tỳ-khưu Ni như là danh nghĩa giả định vì lợi ích đối ngoại chứ không có giá trị đối nội thì sẽ tránh được một vài thành phần lợi dụng danh nghĩa này để làm đảo lộn trật tự “gia phong”.

- Khi về Việt Nam sẽ tùy lúc mà mặc y, chứ không nhất định lúc nào cũng phải mặc để tránh chướng mắt những người đối lập hay dèm pha. Tỳ-khưu Ni Bắc Tông đâu phải lúc nào cũng mặc y như bên Nam Tông.

- Việc thọ giới Tỳ-khưu Ni chỉ giới hạn trong những trường hợp đặc biệt có lợi ích đối ngoại hoặc ở luôn nước ngoài làm Phật sự chứ chưa đến lúc cho thọ đại trà. Không phải thọ giới chỉ vì bị phân biệt đối xử, vì biết đâu khi thọ giới xong sẽ bị phân biệt đối xử theo kiểu khác, nhất là ở các nước Phật giáo Nam Tông.

- Việc Tăng Ni bình đẳng thực ra chỉ là tương đối tùy thời đại và quốc độ. Ngoài đời cũng vậy, khi thì mẫu hệ, khi thì phụ hệ. Gia đình này mẹ cầm quyền, gia đình kia cha quản lý là việc hoàn toàn bình thường, tùy sự diễn biến cơ cấu xã hội và gia đình, không thể nào có sự bình đẳng lý tưởng, Cho dù là được bình đẳng thật sự thì không hẳn trong đó có những mặt tiêu cực của nó. Vậy tất nhiên là cứ tùy duyên mà ứng xử thì chẳng có vấn đề gì.

Thầy chúc con quyết định sáng suốt và nhớ rằng: “Trên đời này chẳng có cái gì toàn vẹn, nên rút lại, tất cả mọi lựa chọn đều giống nhau”.

Thầy Viên Minh


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 12276)
"Hỏi hay đáp đúng" (nguyên tác Anh ngữ: '' Good Question, Good Answer) là một trong nhiều tác phẩm phổ biến của Đại đức Shravasti Dhammika, một Tăng sĩ người Úc đã từng diễn giảng giáo lý Phật Đà trên đài truyền hình và đại học Úc
08/04/2013(Xem: 5806)
Khai Thị [ Tập 1 ] Đại Sư Tuyên Hóa Việt dịch: Ban Phiên Dịch Đại Học Pháp Giới, Vạn Phật Thánh Thành --- o0o --- --- o0o --- | Thư Mục Tác Giả | --- o0o --- Vi tính : Diệu Nga - Samuel Trình bày : Mỹ Hạnh - Nhị Tường
08/04/2013(Xem: 8105)
Có một tiểu hòa thượng mới đến thiền viện, anh ta chủ động đi gặp thiền sư Trí Nhàn, nói thành khẩn: - Con mới đến, xin sư phụ chỉ bảo con phải làm những gì. Thiến sư Trí Nhàn mỉm cười nói: - Trước hết, con hãy đi làm quen với chúng tăng trong chùa. Ngày hôm sau, tiểu hòa thượng lại đến gặp thiền sư, hỏi: - Chúng tăng con đã làm quen hết rồi, giờ phải làm gì?
08/04/2013(Xem: 8003)
Là một con người chúng ta phải có một mục đích cho cuộc sống. Kẻ không theo đúng con đường chính đáng của đời sống sẽ không bao giờ tìm thấy mục đích...
08/04/2013(Xem: 8695)
Nội dung cơ bản của Phật giáo, ở đâu cũng là một, mãi mãi vẫn là một. Phật giáo bắt nguồn từ đức Phật là bậc đại giác, tức là từ biển lớn trí tuệ và từ bi của đức Thích Ca ...
08/04/2013(Xem: 10597)
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe hay thường quen miệng nói đến hai chữ "tu dưỡng’ chẳng hạn như:"Con nên tu dưỡng tánh tình để thành người có đức hạnh" hay:"Nó hư, vì khôn gbiết tu tâm, dưỡng tánh". Hai tiếng"tu dưỡng" thường đi đôi với nhau, nên chúng ta thấy mường tượng như chúng nó giống nghĩa nhau, có một phạm vi, một tác dụng riêng biệt. Tu là sửa, mà dưỡng là nuôi. Người ta sửa cái xấu, mà nuôi cái tốt_Sữa là trừ, mà nuôi là cộng; tu có tánh cách tiêu cực, dưỡng tánh có tánh cách tích cực. Một bên tiêu trừ cái xấu, một bên bồi bổ cái tốt. Một bên làm cho hết hư, một bên làm cho thêm nên. Mọi sự vật trong đời tương đối nầy đều có phần xấu và phần tốt. Đối với cái xấu ta phải tu, đối với cái tốt ta phải dưỡng. Chẳng hạn, khi ta trồng một cây gì, công việc của chúng ta có hai phần lớn: bắt sâu bọ, trừ nước phèn, nước mặn: đó là tu hay sửa. Bỏ phân, tưới nước ngọt, cho nó đủ thoáng khí và ánh nắng mặt trời: đó là bổ hay dưỡng. Tu bổ một cái cây, cho nó đơm hoa kết trái,
08/04/2013(Xem: 10063)
Tôi rất vui mừng, vì thấy mỗi ngày chủ nhật, quý vị bơ thì giờ quý báu, để đến chùa lạy Phật nghe kinh, Một giờ quý vị lạy Phật nghe kinh, thì ngày ấy hay tháng ấy quý vị tránh được việc dữ, làm được điều lành. Một người tránh dữ làm lành, thì người ấy trở nên hiền từ. Cả gia đình đều tránh dữ làm lành, thì gia đình được hạnh phúc. Cả nước đều tránh giữ làm lành thì toàn dân có đạo đức, trở nên một nước thạnh trị. Cả nhơn loại đều tránh dữ làm lành, thì lo chi thế giới chẳng được đại đồng, nhơn loại không hưởng được hạnh phúc thái bình.
06/04/2013(Xem: 9698)
Phật Giáo đưa ra nhiều quan điểm khá khác biệt nhau về cái chết. Nếu đã có nhiều quanđiểm khác nhau thì tất nhiên cũng sẽ phải có nhiều phép tu tập khác nhau. Thếnhưng cái chết cũng chỉ là một hiện tượng duy nhất, vậy chúng ta hãy thử tìmhiểu xem tại sao Phật Giáo lại có nhiều quan điểm và nhiều phép tu tập như thế.
05/04/2013(Xem: 5398)
Hẳn bạn hay chú trọng những chuyện đưa tới sai lầm trong đời, hay ít nhất những gì xảy ra không như ý muốn. Dù khổ đau cứ tái diễn chúng ta vẫn phải tiếp tục phấn đấu vượt qua để đạt tới hạnh phúc và theo đuổi chúng ngay khi ta nghĩ tới.
05/04/2013(Xem: 7257)
Đức Phật là một đấng đại Từ Bi, Ngài xem tất cả chúng sinh mọi loài như con một. Lòng yêu thương chúng sinh của Đức Phật trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, như mẹ thương con, chỉ mong làm sao cho con mình được hết tất cả khó và hưởng tất cả vui, cho nên trong Kinh Hoa Nghiêm nói ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]