Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Nghĩ về thân và thù

20/01/201210:21(Xem: 7987)
04. Nghĩ về thân và thù

NGHĨ VỀ THÂN VÀ THÙ

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 11/10/2011


NGHĨVỀ THÂN VÀ THÙ

BƯỚC NỀN TẢNG

dalailama002Trong hiện tại conthấy rằng thật không thể chịu nổi vì người thân của con khổ đau, nhưng con vuithích khi kẻ thù con đau khổ, và con dửng dưng đến khổ đau của những ngườikhông liên hệ.

-Tông Khách Ba, Đại Luận Con Đường TiệmTiến - Lamrim [1]

Từ nền tảng bản chất thật sự của tâm,chúng ta cần phát triển từ ái và bi mẫn thật mạnh mẽ rằng khổ đau của ngườikhác trở nên không thể chịu nổi. Vì từái và bi mẫn phải được cảm nhận một cách bình đẳng cho tất cả mọi loài chúngsinh, sức mạnh của những thái độ này sẽ tùy thuộc trên mức độ của sự gần gũihay thân thiết mà chúng ta cảm nhận cho người khác. Thí dụ, khi một người bạn thân ngã bệnh, cảmgiác từ ái và bi mẫn, nguyện ước của chúng ta rằng con người này được tự do khỏibệnh đau và được hồi phục sức khỏe, là mạnh mẽ hơn nó có thể là cho một ngườichỉ quen biết, hay cho ai đấy mà chúng ta không thích. Loại từ ái và bi mẫn này bị lẫn lộn với khaokhát theo đuổi một lợi ích nào đấy cho chính chúng ta.

Nếumột người trước đây tướng mạo hấp dẫn với cá tính vui vẻ dễ thương đánh mất bềngoài hay tính tình ấy đi, thì thiện ý để cảm tình với người ấy có thể biến mất. Nhưng nếu chúng ta có một cảm nhận từ bi chomột người xấu xí, thế thì bất kể dung mạo người ấy thay đổi như thế nào đi nữa,cảm nhận từ bi không bị rơi rớt. Trongthí dụ lòng thương yêu bi mẫn thứ nhất lẫn lộn với tham dục: người ấy lôi cuốnchúng ta (hay nói đúng hơn đây là luyếnái). Tâm chúng ta đã thổi phồng nhữngđặc trưng dễ thương của người ấy vì thế tham dục phát sinh, và chúng ta cảm thấymột lòng ước ao khao khát, một hỗn hợp của lòng mật thiết và mong ước làm nhỏđi bất cứ nỗi khổ đau nào mà người ấy đang chịu đựng. Tuy nhiên, lòng bi mẫn thuần khiết khôngthành kiến hay cục bộ; nó hoàn toàn thấm nhuần với hành xả và hoàn thiện cả bạnvà thù.

Khôngcó nhận thức bình đẳng, từ ái và bi mẫn không định kiến thậm chí không thể khaitriển được. Một khi chúng ta đã phátsinh một thái độ bình đẳng đối với tất cả, sau đó nó mới có thể nhìn không chỉnhững người bạn mà những người trung tính (chẳngghét-thương) và ngay cả những kẻ thù với một sự mến yêu rộng rãi. Điều này không dễ dàng. Thật khó khăn để phát triển một cảm giác thâncận đến mọi người. Thiền quán phản chiếulà cần thiết.

BÌNH ĐẲNG

Bắtđầu bằng việc chú ý rằng trong tâm, chúng ta có ba đặc trưng chính cho con người- bạn, người trung tính, và kẻ thù. Chúng ta có thể có nhiều thái độ đối với họ, nhưng ba loại trên là sựquan tâm của chúng ta ở đây - tham dục, dửng dưng sinh khởi từ sự thờ ơ, và thùhận, tương ứng cho từng thứ. Khi bất cứmột thứ nào trong ba thái độ này hiện diện, thì không thể phát sinh một cảmgiác gần gũi với mọi người. Tham dục,thù hận, và dửng dưng phải được làm cho trung hòa.

THIỀN QUÁN

Ởđây là việc chúng ta có thể trau dồi hành xả trong thiền quán như thế nào.

1- Quán tưởng mộtngười bạn, một người thù, và một người trung tính một cách đồng thời.

2- Thẩm tra cảmgiác của chúng ta để thấy ai đang được ôm giữ một cách thân thiết và ai đượcxem như là xa cách. Chúng ta cảm thấy gầngũi tự nhiên với bạn chúng ta; việc quan tâm đến kẻ thù, chúng ta không chỉ cảmthấy xa cách mà đôi khi cũng là giận dữ hay phát cáu; chúng ta không cảm thấygì cho người trung tính hay không quen biết. Khảo sát tại sao.

3- Xem xét có phảingười bạn xuất hiện thân cận bởi vì cô ta đã hỗ trợ chúng ta và bè bạn chúngta.

4- Xem xét có phảikẻ thù xuất hiện xa cách bởi vì người ấy đã làm tổn hại chúng ta và bè bạnchúng ta.

5- Xem xét có phảichúng ta cảm thấy dửng dưng đối với người trung tính bởi vì người ấy không giúpđở cũng không làm tổn hại chúng ta và bè bạn chúng ta.

6- Nhận ra rằng,giống như chính mình, tất cả những người này muốn hạnh phúc và không muốn khổđau, và trong cung cách quan trọng này, họ là bình đẳng.

7- Duy trì vớinhận thức này cho đến khi nó chìm sâu vào trong tâm hành giả.

LÀM NỔI BẬT

Nếuchúng ta mở ra khả năng rằng sự tái sinh trong quá khứ và tương lai qua một sựtương tục của đời sống có thể xảy ra, chúng ta có thể làm nổi bật nhận thức bìnhđẳng bằng việc lưu tâm đến quan hệ mật thiết của tái sinh. Một sự tương tục của các đời sống có nghĩa lànhững sự tái sinh không có sự bắt đầu. Qua tiến triển của nhiều kiếp sống, mọi ngườicó thể đã từng ở trong nhiều loại quan hệ với nhau. Chúng ta không thể chắc rằng những ai bây giờlà bè bạn đã luôn luôn là bằng hữu trong quá khứ và những ai bây giờ là kẻ thùđã luôn luôn là những người thù địch của chúng ta. Ngay cả trong một đời sống này, có những cánhân, người trước đây là kẻ thù nhưng sau này biến thành thân hữu, và những ngườikhác đã từng là bạn hữu nhưng sau này trở thành những kẻ thù. Việc nhìn vào tương lai, không có lý do gì tạisao một kẻ thù phải mãi là một người thù địch và một người bạn sẽ phải mãi mãilà một bằng hữu. Bè bạn, kẻ thù, và nhữngngười trung tính là bình đẳng bởi vì họ có thể đổi chỗ thay thế cho nhau từ vaitrò này sang vai trò nọ.

Kếtquả là, không có cách nào để quyết định sau cùng một cách hoàn toàn rằngmộtngười nào đấy là kẻ thù vĩnh viễn của chúng ta và do thế, phải nên loại bỏ, haylà một người nào đó là bạn hữu vĩnh viễn và vì thế phải được yêu mến, hay rằngai đấy sẽ luôn luôn là một người trung tính xa lạ và do thế phải được đối xử mộtcách dửng dưng. Đúng hơn, tất cả đã hànhđộng một cách đồng đẳng như những kẻ thù, bạn hữu, và trung tính. Nếu ai đấy làm tổn hại chúng ta năm trước nhưnggiúp đỡ chúng ta năm nay, và một người khác giúp đỡ chúng ta năm rồi nhưng lạilàm tổn hại chúng ta hiện tại, họ là như nhau, có phải thế không? Đây là tại sao thật vô lý trong việc nhất quyết lưu tâm một người nào đấy chỉ là bạn hữu và mộtngười khác chỉ là kẻ thù, hay chỉ là trung tính. Cấu trúc căn bản của đời sống là không hoàntoàn ổn định: đôi khi chúng ta thànhcông, thỉnh thoảng chúng ta thất bại. Mọithứ luôn luôn thay đổi, thay đổi và thay đổi. Thế đấy, chúng ta trải nghiệm những cảm giác cứng nhắc và ổn cố đối vớibạn bè, và kẻ thù như vậy là sai lầm một cách đơn giản. Phản chiếu trênđiều này sẽ dần dần đưa tâmchúng ta đến hành xả (buông bỏ những chấp trước).

THIỀNQUÁN

1- Suy xét rằngngay cả trong khoảng thời gian của tuổi thọ kiếp sống này, không chắc chắn rằngnhững cá nhân đặc biệt nào đấy sẽ luôn luôn là bạn hữu, kẻ thù, hay trung lập. Quán chiếu những thí dụ của điều này từ chínhđời sống của mình - một người trung lập đã trở thành một người bạn; một ngườitrung lập trở thành một người thù; một người bạn trở thành trung lập, hay mộtngười thù; một người thù trở thành một người bạn.

2- Quán tưởng aiđấy hiện tại là một người trung lập và tưởng tượng rằng cô ta đem đến sự giúp đỡvà là tổn hại trong những kiếp sống quá khứ.

3- Tưởng tượng mộtngười bạn đã giúp đỡnhiều trong kiếp sống này đã đem đến tổn hại cho mìnhtrong một kiếp sống trước và là trung lập vào những lúc khác.

4- Tưởng tượng rằngmột người thù đã tổn hại mình trong kiếp sống này là trung lập trong một kiếp sốngnào đây và đã đem đi đem lại nhiều lần những lợi ích trong những lúc khác.

5- Hãy thấy rằngtrong nhận thức dài lâu của nhiều kiếp sống, bạn bè, kẻ thù, và người quán sáttrung lập tất cả đều bình đẳng giúp đỡvà gây hại cho mình hay bạn bè mình, vìthế không thể kết luận rằng họ chỉ độc nhất là thứ này hay thứ kia.

6- Nhận ra rằngtrong dạng thức trong sự giao hảo của tiến trình dài lâu của sự tái sinh khôngcó khởi đầu, không ai trong chúng ta có thể quyết định rằng ai đấy người đãgiúp đỡhay tổn hại chúng ta trong kiếp sống này đã, đang và sẽ làm như thếtrong mọi kiếp sống.

7- Quyết định rằngthật không đúng để chỉ ra một người cho sự thân thiết, một người khác cho trunglập dửng dưng, và một người nữa cho sự ghét bỏ.

Phảnchiếu cách này, làm sâu sắc ý nghĩa cảm nhận bình đẳng đối với bè bạn, kẻ thù,và người trung lập.

Dườngnhư có thể thiết yếu hơn để quan tâm những gì người khác đang làm cho mình hayđến mình trong hiện tại hơn là những kiếp sống trước đây, nhưng việc này không như vậy. Như chúng tôi đã chỉ, vị thế một cá nhân nhưbạn hay thù có thể thay đổi ngay trong một kiếp sống. Sự giúp đỡhay tổn hại từ một người khác là tạmthời, và chỉ thời gian mà thôi thì có thể không phải là cơ sở cho việc chọn lựasự mật thiết hay ghét bỏ. Hãy quyết địnhrằng thật không thực tế để khao khát mộtcách mãnh liệt những ai hiện tại giúp đỡmình và thù ghét dữ dội những người hiệntại đang làm tổn hại chúng ta.

KỸ NĂNG HỖ TRỢ

Khichúng ta quán chiếu vấn đề này, sự thấu hiểu cuồng nồng nhiệt về những ngườinhư bạn bè và những người khác như kẻ thù, và sự phát sinh hợp lý của khát vọngvà thù ghét, sẽ trở nên yếu ớt hơn trongsức mạnh. Tuy thế, để mang mối quan hệ mậtthiết của những thiền quán này về tổ ấm, thật hữu ích để phản chiếu trong mộtkhung cảnh gây ấn tượng sâu sắc hơn.

1- Quán tưởnghai người.

2- Tưởng tượng rằngmột người đang vung quả đấm vào hành giả.

3- Phản chiếutrên lý do cho việc trở nên khó chịu: hành giả dường như ở trong một hiểm họa sắpbị đánh.

4- Tưởng tượng mộtcách năng động rằng người thứ hai cùng lúc ấy đang làm điều gì đấy dễ chịu chochúng ta - cầu nguyện cho chúng ta, tặng phẩm vật cho chúng ta, hay vuốt vecánh tay chúng ta.

5- Thẩm tra tạisao chúng ta quá hài lòng với điều này.Đó là qua một tinh cảnh tạm thời ngắn ngủi mà chúng ta quá thích ý.

6- Thấu hiểu điềunày, lưu ý rằng những phản ứng của chúng ta với sự quan tâm đến bạn bè hay kẻthù là không sâu sắc lắm.

THIỀNQUÁN KẾT LUẬN

Khôngcó gì chắc chắn rằng một người bạn, một người thù, và một người dưng sẽ mãi mãilúc nào cũng giúp đỡ, gây hại, hay không gây hại cũng không giúp đỡ. Khi những tư tưởng và động cơ tiêu cực chẳng hạn như thù hận hay giận tức hiện diện, ngaycả một người bạn cũng được thấy như một người thù, nhưng khi những tư tưởng đốivới một người thù biến mất, thì kẻ thù trở thành một người bạn. Phản chiếu trên những điều sau đây:

1- Từ quan điểmcủa chính họ những người bạn, những kẻ thù và những người trung tính là đồng đẳng,muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau.

2- Từ quan điểmcủa chính chúng ta mỗi một người trong họ đã từng là bạn của chúng ta trong vôsố kiếp sống từ vô thì luân hồi sinh tử và chắc chắn sẽ lại giúp đỡ chúng tatrong tương lai; mỗi loại người ấy là trung lập một cách bình đẳng.

3- Vì vậy, từ bấtcứ phía nào được quan tâm, chính chúng ta hay những người khác, không có điểmnào trong những nhận thức thổi phồng về thân thiết và chán ghét. Chúng ta không nên đánh giá người này như cănbản là tốt và người nọ là xấu, mặc dù những hành vi của người ấy có thể là tốthay xấu, hữu ích hay tai hại. Không cólý do gì để tử tế với người này và cáu kỉnh với người nọ. Mặc dù đúng là những cá nhân tạm thời là bạnbè hay thù địch - giúp đỡ hay tổn hại - thật không đúng để phân biệt bất cứ ngườinào với thích thú hay thù ghét.

Thậtquan trọng để diễn tập những thiền quán phản chiếu này với những người đặc thùtrong tâm và không chỉ hướng đến tất cả chúng sinh, toàn bộ thì quá lờ mờ để ảnhhưởng một sự thay đổi thật sự của thái độ. Bằng việc làm việc trên những cá nhân, chậm rãi mở rộng cảm giác này rangày càng nhiều người hơn, chúng ta sẽ phát triển một cảm nhận xả buông đối vớitoàn thể thế giới đời sống.

Quathiền quán này, cuối cùng chúng ta đi đến tại một điểm, nơi mà sự phát sinh nhữngcảm giác mạnh mẽ của khát vọng hay thù hận xuất hiện là vô nghĩa. Thành kiến yếu đi, và chúng ta thẩm định rằngsự phân loại con người một cách cứng nhắc như bạn bè hay kẻ thù đã là một sai lầm.

Giốngnhư làm láng một bức tường trước khi vẽ lên một bức tranh hay chuẩn bị một cánhđồng trước gieo trồng, việc trau dồi một cảm nhận chân thật về tính bình đẳngcung ứng một nền tảng cho bước tiếp theo trong con đường để yêu thương từ ái: công nhận tất cả chúng sinh như những người bạnthân thiết. Bây giờ trau dồi tính bình đẳngsẽ phục vụ như nền tảng cho từ ái.

Nguyêntác: Foundation Step: Viewing Friend andFoetrích từ quyển How to Expand Love
ẨnTâm Lộ ngày 22/10/2011

[1] NhữngGiai Tầng của Con Đường Giác Ngộ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4486)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7300)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4715)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4814)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5240)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10186)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 8939)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6017)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8696)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4892)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]