Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Tịnh hóa tâm thức

04/01/201202:51(Xem: 8002)
03. Tịnh hóa tâm thức
TỊNH HÓA TÂM THỨC
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 04/10/2011

Bảnchất của tâm là ánh sáng trong suốt(Tịnh Quang)
Nhữngnhiễm ô là bề ngoài(khách trần phiền não)
- DHARMAKIRTI

dalailama-0237654medCó thể loại trừnhững cảm xúc rắc rối một cách hoàn toàn, hay có thể chỉ có đè nén chúng màthôi? Theo tuệ giác căn bản của Đạo Phật,tâm một cách cốt yếu là sáng rỡ và tri nhận. Do thế, những rắc rối cảm xúc không thể lưu trú trong bản chất của tâm;những thái độ chướng ngại ẩn tàng là tạm thời và nông cạn, và có thể bị loại trừ.

Nếunhững cảm xúc tai họa như giận dữ vốn ở trong bản chất của tâm, thế thì từ lúckhởi đầu tâm sẽ luôn luôn giận dữ. Mộtcách rõ ràng, điều này không phải như thế.Chỉ dưới những hoàn cảnh nào đó chúng ta mới trở nên giận dữ và khi nhữnghoàn cảnh đó không hiện hữu, giận dữ cũng không hiện diện.

Nhữnghoàn cảnh nào phục vụ như căn bản cho việc phát sinh giận dữ hay thù hận? Khi chúng ta giận dữ, đối tượng sự giận dữ củachúng ta xuất hiện dễ sợ hơn nó thật sự ở đấy. Chúng ta đang giận dữ bởi vì người đã làm tổn hại, đang làm tổn hại, haysẽ làm tổn hại chúng ta hay bạn bè chúng ta. Vì vậy "cái tôi" này là gì mà đang bị làm tổn hại?

Trongsự phô trương của cơn thịnh nộ chúng ta cảm thấy rằng chủ thể, "cáitôi" và khách thể, kẻ thù, là cụ thể và độc lập. Bởi vì chúng ta chấp nhận những hiện tướngnày như một sự thiết lập cố hữu, nên giận dữ được phát sinh. Tuy thế, nếu tại sự bùng nổ đầu tiên của giậndữ, chúng ta đã quen với lý trí tự hỏi mình, Tôi là ai? Con người này là ai mà đang bị tổnthương? Kẻ thù là gì? Có phải kẻ thù là thân thể? Có phải kẻ thù là tâm? kẻ thù hiện hữu một cách cụ thể này,người trước đây dường như là được tạo nên một cách cố hữu như điều gì đấy để giậndữ, và "cái tôi" này, kẻ được tạo nên một cách cố hữu bị tổn thương,dường như biến mất. Và sự giận dữ tanthành từng mảnh.

Nghĩvề điều ấy. Chúng ta giận dữ tại những gì làm thất bại những khao khát củachúng ta. Giận dữ bị xúi bẩy bởi nhận thứcsai lầm khách thể và chính chúng ta được thiết lập trong cách này (như kẻ thùvà nạn nhân) trong tự chúng và của chính chúng.Thù hận không tách rời khỏi nền tảng của tâm. Nó là một thái độ không có nền tảng vững chắc. Tuy nhiên, yêu thương từ ái được tìm thấy mộtcách có căn cứ trong chân lý. Khi, trảiqua một thời gian dài, thái độ có nền tảng vững chắc tranh đua với thái độkhông có cơ sở, thì thái độ với nền tảng vững chắc sẽ lấn át thứ kia.

Nhữngphẩm chất tùy thuộc trên tâm có thể được gia tăng một cách vô giới hạn, và khichúng ta tăng cường các thái độ đối kháng với những cảm xúc buồn đau, những bộphận tương ứng không thiện chí sẽ giảm thiểu, cuối cùng trở nên bị dập tắt hoàntoàn. Vì tâm có bản chất tự nhiên rực rỡvà tri nhận, nên tất cả chúng ta có khí cụ căn bản cần thiết để đạt đến giác ngộ.

NHẬN DIỆN TÂM

Khoảnghai mươi năm trước đây, khi tôi ở Ladakh, Ấn Độ, tiến hành một loạt thiền quán,tôi có một bức tượng Đức Phật Thích Ca phía trước tôi, như vẫn là thói quen củatôi. Lớp vàng ở trái tim bức tượng đãbong mất rồi, và vì thế ở nơi ấy lộ một màu nâu. Khi tôi nhìn vào vùng trái tim của bức tượng,bây giờ không có màu sắc hấp dẫn nữa, nhìn vào tâm tư tôi, cuối cùng tư duy dừnglại, và trong một lúc ngắn ngủi, tôi cảm thấy tự nhiên rực rỡ và tri nhận của tâm. Rồi sau đó, khi tôi hồi tưởng lại điều này, kinhnghiệm sẽ trở lại.

Thậtrất hữu ích trong sự thực tập hàng ngày để nhận diện bản chất tự nhiên của tâm vàtập trung trên ấy. Tuy nhiên, thật khó đểnắm bắt tâm bởi vì nó ẩn tàng bên dưới những tư tưởng dàn trải của chính chúngta. Như một kỹ năng để nhận diện bản chấttự nhiên của tâm, đầu tiên dừng suy nghĩ về những gì đã xảy ra trong quá khứ, rồithì dừng suy nghĩ về những gì có thể xảy ra trong tương lai, hãy để tâm tuôn chảyphù hợp với chính nó mà không có sự phủ lên của tư duy. Hãy để tâm ngừng lại trong thể trạng tự nhiêncủa nó và quán xét nó trong một lúc.

Khi,thí dụ, quý vị nghĩ một tiếng động, giữa lúc nghe nó và nhận thức nguồn gốc củanó, chúng ta có thể cảm nhận thể trạng của tâm trống rỗng tư tưởng nhưng khôngphải ngủ, trong điều mà đối tượng là một sự phản chiếu của sự rực rỡ và tri nhậncủa tâm. Tự nhiên căn bản của tâm có thểđược nắm bắt tại một điểm như vậy. Vàolúc bắt đầu, khi chúng ta không quen với sự thực tập này, thì thật là khó khăn,nhưng đúng lúc tâm sẽ xuất hiện như nước trong vắt. Hãy cố gắng để trụ với thể trạng này của tâmmà không bị xao lãng bởi những tư tưởng nhận thức và tập cho quen thuộc với nó.

Thiềntập đề mục này vào buổi sáng sớm, khi tâm chúng ta đã tỉnh giấc và trong sáng,nhưng những giác quan của chúng ta chưahoạt động hoàn toàn. Cũng lợi ích nếukhông ăn quá nhiều tối đêm qua, cũng không ngủ quá nhiều: giấc ngủ của chúng tasẽ nhẹ nhàng hơn và điều này làm cho tâm thư thái hơn cũng như sắc bén hơn vàosáng hôm sau. Nếu ăn quá nhiều, giấc ngủsẽ dày và nặng, gần giống như thây ma.Trong việc tu tập hằng ngày, tôi ăn no nê vào lúc điểm tâm và buổi trưanhưng chỉ ăn chút ít vào buổi tối - ít hơn nửa chén hạt dẻ hay bánh quy giòn; rồitôi lên giường sớm và thức dậy lúc năm giờ ba mươi vào buổi sáng để bắt đầu thiềntập.

Thấyđấy nếu chú ý đến bản chất của tâm vào buổi sáng sớm tâm chúng ta sẽ tỉnh giáchơn suốt ngày. Tư tưởng chúng ta chắc chắnsẽ tĩnh lặng hơn. Trí nhớ của chúng ta sẽcải thiện nếu chúng ta có thể thực tập một ít thiền quán mỗi ngày, rút lui khỏitâm phân tán. Tâm nhận thức quanh quẩntrong việc suy nghĩ những chuyện tốt, những chuyện xấu, v.v... sẽ được ngơinghỉ. Một chút không phân biệt có thểcung ứng một sự ngơi nghỉ cần thiết rất nhiều.

ThiềnQuán

1- Không nghĩ vềnhững gì đã xảy ra trong quá khứ hay những gì có thể xảy ra trong tương lai.
2- Hãy để tâm tuôn chảy thích hợp với nó màkhông suy nghĩ.
3- Quán chiếu bảnchất rực rỡ trong sáng của tâm.
4- Trụ với kinhnghiệm này trong một lúc.

Chúngta có thể thực tập những đề mục này trong khi nằm trên giường vào buổi sáng,tâm chúng ta tỉnh thức nhưng những giác quan của chúng ta chưa hoạt động hoàntoàn.

ĐỐI KHÁNG NHỮNGRẮC RỐI

Bâygiờ chúng ta hãy nhìn vào những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng chẳng hạn như thèmkhát, thù hận, và ganh tỵ. Tất cả bọnchúng tùy thuộc trên sự tin tưởng sai lầm ban đầu rằng những đối tượng tồn tạinhư những thực thể độc lập, trái lại trong thực tế chúng không như thế. Qua năng lực của si mê như vậy, tất cả nhữngcảm xúc buồn khổ này sinh khởi. Nhưngnhư chúng ta đã thấy, khi chúng ta phân tích thì có phải nỗi si mê này và nhữngrắc rối tháp tùng của nó là bản chất bên trong của chính bản tâm không, chúngta thấy, như đại luận sư Ấn Độ Dharmakirti đã nói, "Bản chất của tâm làánh sáng trong suốt, Tịnh Quang, hay linh quang. Những nhiễm ô là bề ngoài (khách trần phiềnnão)." Bản chất của thức vi tế sâuxa nhất là tinh khiết. Giận dữ, dính mắc,v.v... thuộc ngoại biên và không tồn tại trong căn bản của tâm. Chúng ta gọi điềunày, nền tảng bẩm sinh của tâm là ánh sáng trong suốt, Tịnh Quang, hay linhquang. Bởi vì nó làm cho giác ngộ hiệnthực, nó cũng được gọi là Phật tính. Nóhiện hữu tại gốc rễ của tất cả thức. Cũngthế, tất cả chúng ta có một trình độ nào của bi mẫn, mặc cho những sự khác biệttrong sự phát triển và kiến thức, và tất cả chúng ta có một sự thông tuệ phânbiệt giữa tốt và xấu. Đây là tất cả nhữngđiều kiện cho giác ngộ.

Mộtkhi chúng ta biết rằng những nhiễm ô không "cư trú" trong bản chất củatâm, có thể loại trừ chúng qua việc phát sinh những đối trị với chúng, nhữngthái độ, như thuốc men, có thể chống lại chúng. Nhưng nếu những nhiễm ô không tách rời khỏicăn bản tâm, thế thì ngay khi mà tâm thể hiện chức năng, những tư tưởng tệ hại - giận tức, v.v... - sẽ phải hiện hữu,nhưng điều này không phải như vậy. Ngaychính lúc này, tâm chúng ta đang đọc và suy nghĩ: giận tức chắc chắn không hiệndiện. Những thái độ như giận tức và dínhmắc có thể được tách rời khỏi tâm chính yếu.

Vàonhững lúc trong đời sống chúng ta, tâm chúng ta bám chặc với giận tức và dính mắc,và vào những lúc khác là buông xả, toại nguyện, từ ái, và bi mẫn. Chúng ta không thể cảm thấy tham dục và thù hậnchính xác cùng lúc đối với cùng một đối tượng. Chúng ta chắc chắn có thể có những cảm nhận này tại những thời điểmkhác nhau, nhưng không cùng trong một thờiđiểm, điều này cho thấy rằng hai thái độ này thể hiện chức năng trong sự mâuthuẫn với nhau. Khi một trong chúng, thứnày gia tăng sức mạnh thì thứ kia giảm xuống.

Nhậnthức vững chắc hỗ trợ từ ái và bi mẫn. Sựtrình bày của chúng không cần sự giúp đở từ si mê ám chướng là thứ đã nhận địnhsai lầm các đối tượng như tồn tại cố hữu (có tự tính), hay trong chính chúng vàtự chính chúng mà thôi. Những thái độphi đạo đức như thù hận và kiêu mạn - cho dù chúng mạnh mẽ như thế nào đi nữa -chỉ được sản xuất với sự hỗ trợ và giúp đỡ của vô minh si ám. Do vậy, không có nhận thức sai lầm này trongbản chất của con người và sự vật, thì không có cách nào tham dục và thù hận cóthể triển khai. May mắn thay, những thứcđối lập với tham dục và thù hận có thể hoạt động ngay cả khi không có nhận thứcsai lầm về sự tồn tại cố hữu.

Simê và tuệ trí cả hai quán chiếu cùng những hiện tượng vạn pháp,nhưng những cung cách mà chúng nhận thức vạn pháp là hoàn toàn đối nghịch. Tuệ trí có nền tảng vững chắc, trái lại si mêám tối không có nền tảng có căn cứ và sai lầm với những gì nó nhận thức. Gia tăng sức mạnh của tuệ trí làm yếu simê. Tuệ trí làm giảm thiểu việc lãnh hộisai lầm về bản chất con người và sự vật cho đến khi si mê biến mất.

VẤNNẠN Ở PHÍA BÊN TRONG

Nhữnghoàn cảnh ngoại tại không phải là những gì đưa đẩy chúng ta vào khổ đau. Khổ đau được tạo nên và cho phép bởi một cáitâm chưa thuần hóa. Tâm bản nhiêntrong sáng bị che phủ bởi những cảm xúc và nhận thức phiền toái này. Năng lực lừa đảo của chúng đẩy chúng ta vàonhững hành vi sai lầm, những điều đưa đến khổ đau không tránh khỏi. Chúng ta cần, với sự tỉnh thức và quan tâm lớn,để phân biệt những thái độ rắc rối, thì phương cách tập hợp mây mù sẽ tan biếntrở lại trong không gian của bầu trời. Khi những thái độ, các cảm xúc, và những nhận thức tự thất bại ngừng lại,những hành vi tổn hại sinh khởi từ chúng cũng chấm dứt. Như đại hành giả du già Tây Tạng cuối thế kỷ11 đầu thế kỷ 12 Milarepa đã nói, "Khi sinh khởi, sinh khởi tự trong khônggian của chúng, khi tan biến, tan biến trở lại không gian". Chúng ta cần trởnên quen thuộc với thể trạng của tâm tư chính chúng ta để thấu hiểu những ý tưởngvà những thôi thúc vô căn cứ trở lại không gian sâu thẩm của thực tại như thếnào. Bầu trời vẫn ở đấy trước khi mây mùche phủ, và nó vẫn thế sau khi mây ám tan đi. Nó cũng hiện diện khi mây đen dường như che kín từng phân vuông của bầutrời mà chúng ta có thể thấy.

Bảnchất của nước không bị ô nhiễm bởi rác rưởi, bất chấp dơ bẩn như thế nào. Cùng cách như thế, bản chất ngay cả một tâmthức rối rắm là không bị nhiễm ô bởi cấu uế. Tâm Tịnh Quang của bất cứ chúng sinh nào cũng không bị nhiễm ô bởi nhữngcảm xúc phiền não như thù hận. Lần kế tiếpchúng ta cảm thấy thù hận, hãy thấy chúng ta có thể tách ra khỏi dòng chảychính của tâm chúng ta như một người quán sát sự thù hận. Trái lại chúng ta thường nghĩ, "tôighét.." giống như cảm giác của chúng ta về tự ngã và thù hận là hoàn toànkết chặt với nhau, ở đây chúng ta đang nhìn sự thù hận từ một khoảng cách mongmanh,thấy sự sai lầm của nó, là điều chính nó tạo nên thể trạng hấp dẫn này đểtĩnh lặng một cách tự nhiên.

Đểlàm điều này, trước nhất chúng ta cần phát triển một khả năng để nhìn vào tư tưởngcủa chúng ta, vì cho đến khi mà ý thức của chúng ta còn bị đắm trong nhận thứchóa, thật khó khăn cho tư tưởng quán sát tư tưởng. Nhưng nếu, khi các tư tưởng sinh khởi, chúngta có thể tách ra một chức năng quán sát để nhìn chúng, rồi thì dần dần, chúngta sẽ phát triển một khả năng dể phát triển một năng lực của ý thức quán sát ýthức, và ngay cả tại những thời điểm của thù hận, một nhân tố từ trong tâm ấy sẽcó thể bước ra ngoài sự giận tức. Bằngviệc quen thuộc với ý thức như cả người biết và đối tượng được biết, chúng tacó thể đi đến để nhận ra những gì được gọi là "tâm bình thường",không bị ảnh hưởng bởi sự thích hay không thích, muốn hay không muốn. Khi tâm không bị phân hóa thành nhiều chứcnăng khác nhau, thể trạng tự nhiên sáng rỡ và tri nhận có thể được nhận ra, vànếu chún ta trụ với điều này, kinh nghiệm của sự rực sáng và tri nhận sẽ giatăng. Vì bản chất nội tại ngay cả củathù hận là rực sáng và tri nhận, thù hận sẽ dần dần tan chảy vào trong bản chấtcủa ý thức.

Chúngta không phải dừng một cách cố ý những tư tưởng và cảm giác đa dạng bắt đầu lódạng trong tâm; đúng hơn, không nên tiêm nhiễm trong chúng, đừng để tâm chúngta bị đẩy vào trong chúng. Tâm rồi thì sẽđảm nhiệm hình thức tự nhiên của nó, vàTịnh Quang của nó có thể được xác định.Sau đó sự thanh tịnh căn bản của nó có thể được biết.

Khichúng ta thấu hiểu rằng Tịnh Quang là bản chất tự nhiên của nội tâm chúng ta,những phẩm chất ngày càng lớn hơn và lớn hơn như sự biểu lộ từ ái hay lòng yêuthương vô chấp. Đây là tại sao sự chuyển hóa tinh thần không thểlà kết quả của việc thực hiện những thay đổi môi trường bên ngoài của chúngta. Việc đạt được nhiều thứ hơn một khichúng ta có những gì cần thiết không đưa đến sự toại nguyện.

Sựgiải thoát đạt được bằng việc biết rằng bản chất tối hậu của chính tự tâm: nókhông được ban tặng cho chúng ta bởi một người nào đấy hay điều gì khác. Hạnh phúc đến qua việc thuần hóa tâm; khôngcó sự thuần hóa tâm thì không có cách nào để hạnh phúc. Bất chấp bản chất của thế gian chúng ta sẽkhông khổ sở vì phiền não hay gây rađau khổ khi chúng ta tin cậy trong bản chất nền tảng rực sáng của tâm, Tịnh Quangcủa nó.

TÂM KIM CƯƠNG

Cănbản tự nhiên và sáng rỡ của Tịnh Quang là cội nguồn của tất cả những tâm thức -là vĩnh viễn không thể phá hủy được, không thể biến đổi được như kimcương. Trong Đạo Phật, khía cạnh này củatâm được xem như thường trụ trong ý nghĩa sự tương tục của nó là liên tục - nóluôn luôn tồn tại và sẽ tiếp tục mãi mãi và vì thế không là điều gì đấy được bắtđầu một cách mới mẻ bởi nhân duyên (nguyên nhân và điều kiện).

Tâmcăn bản của chúng ta thanh tịnh một cách chính yếu, tự nhiên trống rỗng rắc rốingay từ bắt đầu. Trong nó, tất cả mọi hiệntượng thanh tịnh và nhiễm ô xuất hiện như những sự biểu hiện tự nhiên thanhthoát của nó. Hào quang chói lọi rực rỡ vôchướng ngại của tâm ngay cả được gọi là bi mẫn, bởi vì tác động của nó là nhữnghành vi thương yêu vô chấp, phát sinh từ thực thể thanh tịnh căn bản và tựnhiên thanh thoát.

Tinhkhiết từ lúc khởi đầu và được ban cho với sự thanh thoát tự nhiên, tâm kimcương này là căn bản của mọi phát triển tâm linh. Ngay cả trong sự phát sinh vô số nhận thức tốtvà xấu, chẳng hạn như tham dục, thù hận, và hoang mang, tâm kim cương tự nó tựdo khỏi sự quấy nhiễu của những nhiễm ô này, như bầu trời trong suốt những đámmây. Nước có thể cực kỳ dơ bẩn, tuy thếbản chất của nó vẫn trong sạch. Tương tựnhư thế, bất chấp những cảm xúc phiền não nào được sinh ra như sự tạo tác thiệnxảo của tâm kim cương này, và bất chấp chúng mạnh mẽ như thế nào đi nữa, căn bảncủa tâm tự nó duy trì không bị nhiễm ô bởi cấu uế; nó là toàn hảo mà không có bắtđầu hay kết thúc.

Nhữngphẩm chất tâm linh kỳ diệu, chẳng hạn như từ ái và bi mẫn không bị ràng buộc, tấtcả là sự hiện diện trong hình thức căn bản trong tâm kim cương này; sự biểu hiệncủa từ ái và bi mẫn chỉ bị ngăn ngừa bởi những điều kiện tạm thời mà thôi. Trong một ý nghĩa nào đấy, chúng ta được giácngộ ngay từ đầu, được phú cho một tâm căn bản hoàn toàn tốt đẹp.

ĐÁNH GIÁ HOÀN CẢNHHIỆN TẠI

Bằngviệc được sinh ra như một con người, chúng đã tiếp nhận một hệ thống hỗ trợ vậtchất mà qua nó chúng ta có thể dễ dàng đạt được cả những mục tiêu nhất thời lẫncác mục tiêu sâu rộng hơn. Bây giờ chúngta đã đạt được hình thể đời sống thuận lợi này rất đặc biệt trong vô số hình thểsinh ra trong thế giới này, nên thật quan trọng là [để nhớ rằng] chúng ta đừnglãng phí nó. Nếu trong hoàn cảnh nàychúng ta chỉ đơn thuần thực tập để đạt được một đời sống tốt đẹp trong những đờisống tái sinh sau này cho chính chúng ta, thì chúng ta sẽ sử dụng khả năngchúng ta một cách trọn vẹn. Hay, nếuchúng ta chỉ đơn thuần hướng đến giải thoát cho chính bản thân từ những trạngthái rối rắm của khổ đau, thì điều này cũng làm thui chột khả năng vốn có củachúng ta. Với thân người, chúng ta phảinên làm bất cứ điều gì đấy mà chúng ta có thể đạt đến một sự phát triển tâmlinh toàn hảo và trọn vẹn.

THIỀNQUÁN

1- Quán chiếutrên khả năng của tình trạng hiện tại của hành giả cho một sự tăng trưởng tâmlinh: chúng ta có một thân người; những giáo huấn tâm linh thuận lợi trong môitrường; chúng ta có khả năng tinh thần để tiếp thu những giáo huấn tâm linh -chúng ta có tâm kim cương thanh tịnh thuần khiết.
2- Đánh giá nhữngcơ hội hiện tại cho sự thực tập tâm linh.
3- Thiết lập độngcơ của chúng ta, một nguyện ước để hỗ trợ không chỉ chính chúng ta mà tất cảchúng sinh.
4- Hướng đếngiúp đỡ người khác.

Nguyêntác: Basic Purity of the Mindtríchtừ quyển How to Expand Love

ẨnTâm Lộ ngày 10/10/2011

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5105)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5547)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4401)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 4954)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4533)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5245)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4742)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9475)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4873)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4116)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]