Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Địa ngục

09/04/201313:32(Xem: 9243)
Địa ngục

ĐỊA NGỤC

Thích Như Điển

---o0o---

Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (2005) Phật lịch 2549 tại Chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc, tôi và tăng chúng độ 30 vị, rất an lạc trong mỗi từng sát na sanh diệt của cuộc đời ở trong 90 ngày ấy.

Năm nay Đại chúng chùa chùa Viên Giác đang lạy đến những trang cuối của quyển I, Kinh Đại Niết Bàn gồm 776 trang, phẩm thứ 20 tên là phẩm Phạm Hạnh. Suốt 10 năm nay chúng tôi đã lạy quyển kinh này và sang năm 2006 chúng tôi sẽ tiếp tục lạy tập II. Cứ mỗi chữ mỗi lạy như thế, chúng tôi cảm niệm được thâm ân của chư Phật đã chỉ rõ đường đi lối về của một hành giả đang tu học theo pháp của Phật. Đến phẩm này có đoạn Vua A Xà Thế sau khi đã giết cha, tâm ông vô cùng hối hận. Cả mình bị đau nhức mà thuốc gì, Hoàng hậu Vi Đề Hy xức cho cũng không bớt được. Nhân đấy có một số vị Bà La Môn học giả thông thái mới đến thưa với vua rằng:

Xưa nay việc giết cha để cướp ngôi đã có nhiều người làm và vì phép của nước chứ không phải là giới luật của người xuất gia, nên không có tội. Bệ hạ cứ an tâm.

Rồi cũng có vị Bà la môn đem một số ví dụ ra để minh chứng cho vua thấy rằng việc giết cha để cướp ngôi không có tội và nói rằng:

Ví như con trùng A La La khi sanh ra thì nó phải cắn xé bụng mẹ phải chết. Như thế cũng đã chẳng có tội. Ngoài ra con La cũng như thế. Nghĩa là khi con con phải được sống thì con mẹ phải biến thể; hoặc phải chết. Việc nầy không có tội.

Cũng có vị Bà la môn khuyên rằng: Chỉ có Đức Phật mới giải cứu được tội của Vua thôi, nhà vua nên đến đó để sám hối và chắc chắc sẽ được hết tội. Nếu chần chờ, Đức Phật sẽ vào Niết bàn.

Tuy có nhiều lời khuyên như thế, nhưng nhà vua vẫn chần chờ. Vì nghĩ rằng mình là người không xứng đáng, như kẻ cùi hủi, còn Đức Phật như một bậc Thánh nên không muốn đến. Dĩ nhiên cuối cùng rồi ông ta cũng đã đến với Đức Phật và đã được Phật giảng giải tỉ mỉ rõ ràng về những cội nguồn của sanh tử để vua A Xà Thế sám hối tội lỗi xưa của mình, nhưng trước đó kinh cũng có đề cập đến những người làm ác mà không chịu ăn năn sám hối thì sẽ bị đoạ vào địa ngục A Tỳ, hay còn gọi là địa ngục Vô Gián. Địa ngục A Tỳ; hay còn gọi là địa ngục vô gián. Địa ngục nầy dành cho những người mắc năm tội nặng. Đó là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hoà hợp Tăng và làm thân Phật ra máu.

Chữ A có nghĩa là không; chữ Tỳ có nghĩa là Cứu hay xen kẻ. Cũng có nghĩa là Vô Gián. Nghĩa là không có thời gian. Ở đây có 5 nghĩa chính:

Thứ nhất là xả thân sanh báo không có thời gian, nghĩa là sinh rồi chết, chết rồi sinh không biết bao nhiêu lần ở trong địa ngục. Thứ hai là thọ khổ không có niềm vui cũng không có thời gian nhất định. Thứ ba là thời gian không hạn định ở trong một kiếp số. Thứ tư là mệnh không gián đoạn và thứ năm là hình không gián đoạn. Địa ngục nầy ngang dọc 8 vạn do tuần, từ một người cho đến vô số người cũng đều chứa được đầy ắp trong đó.

Đây là một trong 8 địa ngục và bên ngoài 8 địa ngục nầy, mỗi địa ngục còn có 4 địa ngục lớn nhỏ chung quanh nữa vây bọc. Khi chúng sanh ra khỏi một trong 8 địa ngục Vô Gián nầy rồi, thấy những địa ngục bên cạnh như nước lạnh mát mẻ, khởi tâm thích mới chạy vào đó; không ngờ đó là địa ngục thiêu đốt, địa ngục Diêm La….tội nhân cứ chết đi sống lại, rồi bị hành hình thọ quả. Nhiều khi muốn chết mà cũng không thể chết được. Vì quả báo thọ chưa xong.

Đồng thời trong mùa an cư kiết hạ năm nay tôi cũng đang dịch quyển: “Phật thuyết Lập Thế A Tỳ Đàm”. Đây là một phần nhỏ trong quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng kinh. Trong ấy cò nhiều phẩm khác nhau. Ví dụ như vì sao có ngày có đêm? Vì sao có sự khác biệt về ăn mặc giữa châu nầy và châu kia. Đặc biệt Đức Phật cũng nói rõ về các giống dân da đen, vàng, đỏ, trắng ở cõi Nam Diêm Phù Đề và ở các cõi khác. Trong cõi Dục cũng như Sắc và Vô Sắc khác nhau như thế nào. Thật là một sự trùng hợp lạ lùng. Trùng hợp vì lẽ Kinh Đại Bát Niết Bàn chúng tôi đang lạy cũng đang đến chỗ diển tả địa ngục A Tỳ và dịch kinh trong mùa an cư kiết hạ nầy cũng đang nằm ở chỗ các địa ngục. Nay nhân mùa Vu lan báo hiếu; nên tôi kể lại sơ qua những địa ngục đã dịch để quý độc giả hiểu thêm, nhờ đó mà mới biết nhân để sợ quả và lo sám hối tội lỗi như vua A Xà Thế đã làm thì lợi lạc biết bao nhiêu.

Tám loại địa ngục ấy tuần tư như sau:

Thứ nhất là Đẳng hoạt địa ngục (Songtra); những chúng sanh bị sanh vào đây gươm đao đâm chém, bị đánh động bởi gậy gộc, cối xay nghiền giả; khi có gió lạnh thổi đến thì tỉnh lại và sự hành hình tiếp tục.

Địa ngục thứ hai là Hắc Thằng địa ngục (Kalasutra). Kẻ bị phạm tội bị căn thân thể ra bằng giây thừng đen và cưa, chém tứ chi của người có tội.

Địa ngục thứ ba là Chúng Hợp địa ngục (Sanhata). Nơi đây những người phạm tội hợp lại nhau và cắn xé lẫn nhau.

Địa ngục thứ tư gọi là Hào Khiếu Địa ngục (Rovuva) cũng còn gọi là Khiếu Hoán Địa ngục. Nơi đây tội nhân chịu cực hình khổ sở, kêu than thảm thiết.

Thứ năm là Đại khiếu địa ngục (Maha-Rovuva). Các tội nhân mắc tội phải chịu nhiều hình phạt tăng lên, kêu khóc càng to hơn nữa.

Thứ sáu là Viêm Nhiệt địa ngục (Tapana). Tội nhân ở đây bị lửa thiêu toàn thân bốc cháy, khổ cực không sao chịu nỗi.

Thứ bảy là Đại Nhiệt địa ngục (Pratapana); nơi đây lửa thiêu cực kỳ gay gắt, lửa tăng lên gấp đôi.

Thứ tám là Vô gián địa ngục (Avisi). Kẻ mắc tội nơi đây phải chịu khổ hình liên tục nên gọi là vô gián.

Chữ địa ngục có nghĩa là ngục ở dưới đất theo nghĩa đen. Vì chữ địa là đất. Chữ ngục là giam giữ, chữ ngục nầy gồm bộ khuyển có nghĩa là chó. Bộ ngôn có nghĩa là lời nói và chữ khuyển cũng là con chó đứng bên phía tay mặt nữa. Như vậy là lời nói ác như hai con chó đứng hai bên. Kẻ nào như thế đều bị quả báo sẽ vào chốn nầy. Còn nghĩa bóng thì sao?

Ý nói những người nào làm ác thì chịu quả báo. Có thể là ở trước mắt, chứ không nhất thiết là sau khi chết đi mới đoạ vào địa ngục. Vi dụ như ta bất hiếu với cha mẹ mình, thì chính trong đời nầy, con của mình nó sẽ bất hiếu với mình, chứ không cần đời sau. Vì vậy cho nên có câu phong dao rằng:

Ngày xưa quả báo thì chầy

Ngày nay quả báo ở ngay nhãn tiền

Việc nầy lịch sử có ghi rõ ràng qua bao triều đại phế hưng của lịch sử Việt nam, Trung hoa, Nhật bản, cũng như lịch sử của Thế giới.

Nghĩa bóng có nghĩa là không phải là hình thật, mà chỉ nói bóng nói gió vậy thôi. Nhưng bóng gió đây cũng có ý nghĩa thực tế của nó như: “Hình ngay thì bóng thẳng, hình vọng thì bóng cong”;hoặc “nhân nào quả nấy”v.v…

Có thể nhiều người không tin có địa ngục. Cũng có thể như thế. Vì họ bảo rằng phải chứng minh cho họ thấy họ mới tin. Nhưng tôi thì cho rằng dù có chứng minh đi chăng nữa, họ cũng khó tin được. Ví dụ như: Không khí chúng ta không thấy được; nhưng chúng ta vẫn tin rằng nếu không có không khí thì chúng ta sẽ chết, và một ví dụ khác: Ta chưa bao giờ thấy mặt của Ông bà cha mẹ ta trong 5 hay 7 đời về trước, nhưng ta vẫn tin rằng: Nếu không có họ, thì làm sao có ta ngày hôm nay. Đó là chuyện trước mắt mà còn không tin thì chuyện không dùng mắt để thấy được, làm sao có thể tin được. Sở dĩ người Phật tử tin được là vì qua trí tuệ chứng đắc của Đức Phật, Ngài đã thấy rõ mọi sự việc trên thế gian và đã kể lại cho Ngài A Nan nghe và những việc như thế đã được in thành sách, viết thành kinh để răn dạy người đời. Còn tin hay không, ấy là chuyện của mỗi người, chứ Đạo Phật hay Đức Phật chẳng bắt ai phải tin theo mình cả. Gíao lý của Đức Phật cũng ví như ngọn đèn sáng; nhưng đối với người mù thì sự sáng ấy đâu có giá trị gì. Nhưng điều ấy không có nghĩa là giáo lý ấy chỉ dạy cho người mù. Không phải vì người mù mà không có ánh sáng. Sở dĩ người ta không thấy được ánh sáng là tại vì người ta mù, chứ không phải ngược lại. Cũng như thế ấy, người không tin Phật pháp thì dầu cho có Phật hiện thân cũng khó độ được; huống nữa là những pho sách vỡ hay kinh điển ấy. Thật ra nó chẳng có giá trị gì, vì người ta chưa đụng vào thực tế. Mà thực tế của cuộc sống là gì? Là con số không to tướng, điều ấy không có nghĩa là không có tội phước, địa ngục, cưc lạc hay cảnh giới khác v.v… Tất cả đều có và tất cả đều phải bị chi phối bởi nghiệp lực, vô thường, khổ, không, và vô ngã. Ai hiểu được điều nầy tức hiểu được giáo lý của Đức Phật.

Có một điều chắc chắn chúng ta biết rằng: không có ngày hôm qua thì sẽ không có ngày hôm nay và nếu ngày hôm nay không có thì ngày mai sẽ không có. Nhưng trước ngày hôm qua và sau ngày mai là những gì nữa thì do nhân và quả tạo thành cái giải luân hồi vô tận ấy và ta phải tin rằng: Nhân tốt sẽ không bao giờ sanh trái đắng và người hiền không bao giờ bị nhân quả hàm oan. Nếu có chỉ vì nghiệp xưa chưa trả hết và bây giờ cứ an phận mà trả cho món nợ vô hình kia thì: “Sau cơn mưa trời lại sáng” xin đừng than phiền và đừng trách móc ai. Vì tất cả đều do mình làm và tất cả mình phải gánh lấy hậu quả của nó. Không ai phạt ta cả; ngoại trừ ta tự gieo nhân không lành và cũng chẳng ai thưởng ta cả khi nghiệp dĩ vô minh của chúng ta vốn đầy sân si và tội lỗi.

Trong mọi kinh điển Đức Phật hay xác nhận rằng: Kẻ nhất xiển đề và kẻ phạm tội ngũ nghịch thì bị đoạ địa ngục và nhất định không được giải thoát. Tuy nhiên trong kinh Đại Bát Niết Bàn Đức Phật dạy rất rõ ràng là dầu cho nhất xiển đề hay tội ngũ nghịch mà có tin nơi Tam Bảo thì người ấy trước sau cũng có khả năng giải thoát, giác ngộ. Điều ấy cho chúng ta một sự khẳng định như trong Đại Trí Độ Luận nói rằng: Như trong một căn phòng tồi vô lượng kiếp (dụ cho vô minh) nếu ta mang vào căn phòng nầy một ánh đèn nhỏ, thì dầu cho căn phòng tối bao nhiêu lâu đi chăng nữa, căn phòng ấy vẫn có một chút ánh sáng (dụ cho chân lý giải thoát) và chính nhờ cái nhân sáng ấy, tức nhân có tin nhân quả, nghiệp báo, Niết bàn, địa ngục mà người ấy sẽ có khả năng thành Phật trong mai hậu.

Con đường đến với Đạo Phật có rất nhiều lối, không phải chỉ có đi lên hay đi xuống, đi qua đi lại, đi ngang đi dọc v.v… suốt cả một cuộc hành trình sanh tử như thế. Chỉ đến khi nào vô minh dứt sạch thì mọi chi nhánh của 12 nhân duyên không còn nữa và lúc ây Niết Bàn an lạc lại đến với mọi người, bất kể là ai.

Tôi mỗi năm có được những tháng ngày yên ổn như thế này để hành trì và dịch kinh viết sách, cảm thấy mình là người rất an lạc và hạnh phúc. Vì chân lý đang ở trong ta chứ không phải ở bên ngoài, và tất cả đều do ta tạo tác cũng như hưởng quả chứ không ai gieo thiện và không ai làm ác với ta. Vì tất cả chúng sanh mới là thiện hữu tri thức của mình. Tôi chỉ biết một điều duy nhất là: “Bồ tát sợ nhân còn chúng sanh sợ quả"mà thôi. Nên tôi phải hiểu mình là ai hơn là đi tìm hiểu kẻ khác là ai. Vì có kẻ khác nầy thì lại có thêm kẻ khác nữa. Ai công đâu mà phải đi tìm 6 tỉ nhân sinh như thế trên quả địa cầu nầy. Đó là chưa kể đến những chúng sanh khác ở thế giới nầy hay thế giới khác nữa. Vì:

“Công đâu công uổng công thừa

Công đâu gánh nước tưới dừa Tam quan”

Xứ Tam quan chắc là dừa nhiều lắm, người ta có muốn tưới cây không thể tưới hết nỗi. Do vậy bổn phận của mỗi người hãy tự tưới tẩm tâm thức của mình một chút hiểu biết, là cây giác ngộ sẽ có cơ hội đâm chồi nảy lộc rồi.

Tóm lại viết cho báo Tâm Giác lần nầy nhân lễ Vu Lan mà viết về Địa ngục, chắc chắn nhiều vị độc giả bảo rằng: ‘Tôi đem chuyện ma nhác con nít ngày hôm nay, là điều chúng chẳng sợ mà còn cười”. Xem ai đó có cười thì cứ cười. Vì sau nụ cười bao giờ cũng là tiếng khóc. Vì ai đó “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”. Khi nghiệp dĩ đã phát sanh, lúc ấy cứu chữa đã chậm lắm rồi. Như Đề Bà Đạt Đa, A Xà Thế, Vô Não.v.v… Đó là người đời xưa. Còn bây giờ nhiều nhà tù đang nhốt tù nhân trong đó; những nơi đày ải cải tạo ấy chẳng phải địa ngục là gì? Nhưng ở trong ấy nếu người nào còn có niềm tin, có sự hy vọng thì sẽ có tất cả. Vì tục ngữ Nga có nói rằng:

“Mất tiền là chẳng mất gì hết cả. Mất danh dự là mất một phần lớn của cuộc đời. Chỉ có ai đánh mất đi niềm tin và mất sự hy vọng mới là mất hết tất cả”.

Mong rằng quý vị đừng đánh mất một niềm tin.

Viên Giác Tự vào một sáng mùa hạ

Nhân mùa an cư kiết hạ năm Ất Dậu-2005

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/02/2021(Xem: 9190)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5559)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5455)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 6200)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4751)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5335)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4930)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5840)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 5082)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9856)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]