Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Địa ngục

09/04/201313:32(Xem: 9230)
Địa ngục

ĐỊA NGỤC

Thích Như Điển

---o0o---

Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (2005) Phật lịch 2549 tại Chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc, tôi và tăng chúng độ 30 vị, rất an lạc trong mỗi từng sát na sanh diệt của cuộc đời ở trong 90 ngày ấy.

Năm nay Đại chúng chùa chùa Viên Giác đang lạy đến những trang cuối của quyển I, Kinh Đại Niết Bàn gồm 776 trang, phẩm thứ 20 tên là phẩm Phạm Hạnh. Suốt 10 năm nay chúng tôi đã lạy quyển kinh này và sang năm 2006 chúng tôi sẽ tiếp tục lạy tập II. Cứ mỗi chữ mỗi lạy như thế, chúng tôi cảm niệm được thâm ân của chư Phật đã chỉ rõ đường đi lối về của một hành giả đang tu học theo pháp của Phật. Đến phẩm này có đoạn Vua A Xà Thế sau khi đã giết cha, tâm ông vô cùng hối hận. Cả mình bị đau nhức mà thuốc gì, Hoàng hậu Vi Đề Hy xức cho cũng không bớt được. Nhân đấy có một số vị Bà La Môn học giả thông thái mới đến thưa với vua rằng:

Xưa nay việc giết cha để cướp ngôi đã có nhiều người làm và vì phép của nước chứ không phải là giới luật của người xuất gia, nên không có tội. Bệ hạ cứ an tâm.

Rồi cũng có vị Bà la môn đem một số ví dụ ra để minh chứng cho vua thấy rằng việc giết cha để cướp ngôi không có tội và nói rằng:

Ví như con trùng A La La khi sanh ra thì nó phải cắn xé bụng mẹ phải chết. Như thế cũng đã chẳng có tội. Ngoài ra con La cũng như thế. Nghĩa là khi con con phải được sống thì con mẹ phải biến thể; hoặc phải chết. Việc nầy không có tội.

Cũng có vị Bà la môn khuyên rằng: Chỉ có Đức Phật mới giải cứu được tội của Vua thôi, nhà vua nên đến đó để sám hối và chắc chắc sẽ được hết tội. Nếu chần chờ, Đức Phật sẽ vào Niết bàn.

Tuy có nhiều lời khuyên như thế, nhưng nhà vua vẫn chần chờ. Vì nghĩ rằng mình là người không xứng đáng, như kẻ cùi hủi, còn Đức Phật như một bậc Thánh nên không muốn đến. Dĩ nhiên cuối cùng rồi ông ta cũng đã đến với Đức Phật và đã được Phật giảng giải tỉ mỉ rõ ràng về những cội nguồn của sanh tử để vua A Xà Thế sám hối tội lỗi xưa của mình, nhưng trước đó kinh cũng có đề cập đến những người làm ác mà không chịu ăn năn sám hối thì sẽ bị đoạ vào địa ngục A Tỳ, hay còn gọi là địa ngục Vô Gián. Địa ngục A Tỳ; hay còn gọi là địa ngục vô gián. Địa ngục nầy dành cho những người mắc năm tội nặng. Đó là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hoà hợp Tăng và làm thân Phật ra máu.

Chữ A có nghĩa là không; chữ Tỳ có nghĩa là Cứu hay xen kẻ. Cũng có nghĩa là Vô Gián. Nghĩa là không có thời gian. Ở đây có 5 nghĩa chính:

Thứ nhất là xả thân sanh báo không có thời gian, nghĩa là sinh rồi chết, chết rồi sinh không biết bao nhiêu lần ở trong địa ngục. Thứ hai là thọ khổ không có niềm vui cũng không có thời gian nhất định. Thứ ba là thời gian không hạn định ở trong một kiếp số. Thứ tư là mệnh không gián đoạn và thứ năm là hình không gián đoạn. Địa ngục nầy ngang dọc 8 vạn do tuần, từ một người cho đến vô số người cũng đều chứa được đầy ắp trong đó.

Đây là một trong 8 địa ngục và bên ngoài 8 địa ngục nầy, mỗi địa ngục còn có 4 địa ngục lớn nhỏ chung quanh nữa vây bọc. Khi chúng sanh ra khỏi một trong 8 địa ngục Vô Gián nầy rồi, thấy những địa ngục bên cạnh như nước lạnh mát mẻ, khởi tâm thích mới chạy vào đó; không ngờ đó là địa ngục thiêu đốt, địa ngục Diêm La….tội nhân cứ chết đi sống lại, rồi bị hành hình thọ quả. Nhiều khi muốn chết mà cũng không thể chết được. Vì quả báo thọ chưa xong.

Đồng thời trong mùa an cư kiết hạ năm nay tôi cũng đang dịch quyển: “Phật thuyết Lập Thế A Tỳ Đàm”. Đây là một phần nhỏ trong quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng kinh. Trong ấy cò nhiều phẩm khác nhau. Ví dụ như vì sao có ngày có đêm? Vì sao có sự khác biệt về ăn mặc giữa châu nầy và châu kia. Đặc biệt Đức Phật cũng nói rõ về các giống dân da đen, vàng, đỏ, trắng ở cõi Nam Diêm Phù Đề và ở các cõi khác. Trong cõi Dục cũng như Sắc và Vô Sắc khác nhau như thế nào. Thật là một sự trùng hợp lạ lùng. Trùng hợp vì lẽ Kinh Đại Bát Niết Bàn chúng tôi đang lạy cũng đang đến chỗ diển tả địa ngục A Tỳ và dịch kinh trong mùa an cư kiết hạ nầy cũng đang nằm ở chỗ các địa ngục. Nay nhân mùa Vu lan báo hiếu; nên tôi kể lại sơ qua những địa ngục đã dịch để quý độc giả hiểu thêm, nhờ đó mà mới biết nhân để sợ quả và lo sám hối tội lỗi như vua A Xà Thế đã làm thì lợi lạc biết bao nhiêu.

Tám loại địa ngục ấy tuần tư như sau:

Thứ nhất là Đẳng hoạt địa ngục (Songtra); những chúng sanh bị sanh vào đây gươm đao đâm chém, bị đánh động bởi gậy gộc, cối xay nghiền giả; khi có gió lạnh thổi đến thì tỉnh lại và sự hành hình tiếp tục.

Địa ngục thứ hai là Hắc Thằng địa ngục (Kalasutra). Kẻ bị phạm tội bị căn thân thể ra bằng giây thừng đen và cưa, chém tứ chi của người có tội.

Địa ngục thứ ba là Chúng Hợp địa ngục (Sanhata). Nơi đây những người phạm tội hợp lại nhau và cắn xé lẫn nhau.

Địa ngục thứ tư gọi là Hào Khiếu Địa ngục (Rovuva) cũng còn gọi là Khiếu Hoán Địa ngục. Nơi đây tội nhân chịu cực hình khổ sở, kêu than thảm thiết.

Thứ năm là Đại khiếu địa ngục (Maha-Rovuva). Các tội nhân mắc tội phải chịu nhiều hình phạt tăng lên, kêu khóc càng to hơn nữa.

Thứ sáu là Viêm Nhiệt địa ngục (Tapana). Tội nhân ở đây bị lửa thiêu toàn thân bốc cháy, khổ cực không sao chịu nỗi.

Thứ bảy là Đại Nhiệt địa ngục (Pratapana); nơi đây lửa thiêu cực kỳ gay gắt, lửa tăng lên gấp đôi.

Thứ tám là Vô gián địa ngục (Avisi). Kẻ mắc tội nơi đây phải chịu khổ hình liên tục nên gọi là vô gián.

Chữ địa ngục có nghĩa là ngục ở dưới đất theo nghĩa đen. Vì chữ địa là đất. Chữ ngục là giam giữ, chữ ngục nầy gồm bộ khuyển có nghĩa là chó. Bộ ngôn có nghĩa là lời nói và chữ khuyển cũng là con chó đứng bên phía tay mặt nữa. Như vậy là lời nói ác như hai con chó đứng hai bên. Kẻ nào như thế đều bị quả báo sẽ vào chốn nầy. Còn nghĩa bóng thì sao?

Ý nói những người nào làm ác thì chịu quả báo. Có thể là ở trước mắt, chứ không nhất thiết là sau khi chết đi mới đoạ vào địa ngục. Vi dụ như ta bất hiếu với cha mẹ mình, thì chính trong đời nầy, con của mình nó sẽ bất hiếu với mình, chứ không cần đời sau. Vì vậy cho nên có câu phong dao rằng:

Ngày xưa quả báo thì chầy

Ngày nay quả báo ở ngay nhãn tiền

Việc nầy lịch sử có ghi rõ ràng qua bao triều đại phế hưng của lịch sử Việt nam, Trung hoa, Nhật bản, cũng như lịch sử của Thế giới.

Nghĩa bóng có nghĩa là không phải là hình thật, mà chỉ nói bóng nói gió vậy thôi. Nhưng bóng gió đây cũng có ý nghĩa thực tế của nó như: “Hình ngay thì bóng thẳng, hình vọng thì bóng cong”;hoặc “nhân nào quả nấy”v.v…

Có thể nhiều người không tin có địa ngục. Cũng có thể như thế. Vì họ bảo rằng phải chứng minh cho họ thấy họ mới tin. Nhưng tôi thì cho rằng dù có chứng minh đi chăng nữa, họ cũng khó tin được. Ví dụ như: Không khí chúng ta không thấy được; nhưng chúng ta vẫn tin rằng nếu không có không khí thì chúng ta sẽ chết, và một ví dụ khác: Ta chưa bao giờ thấy mặt của Ông bà cha mẹ ta trong 5 hay 7 đời về trước, nhưng ta vẫn tin rằng: Nếu không có họ, thì làm sao có ta ngày hôm nay. Đó là chuyện trước mắt mà còn không tin thì chuyện không dùng mắt để thấy được, làm sao có thể tin được. Sở dĩ người Phật tử tin được là vì qua trí tuệ chứng đắc của Đức Phật, Ngài đã thấy rõ mọi sự việc trên thế gian và đã kể lại cho Ngài A Nan nghe và những việc như thế đã được in thành sách, viết thành kinh để răn dạy người đời. Còn tin hay không, ấy là chuyện của mỗi người, chứ Đạo Phật hay Đức Phật chẳng bắt ai phải tin theo mình cả. Gíao lý của Đức Phật cũng ví như ngọn đèn sáng; nhưng đối với người mù thì sự sáng ấy đâu có giá trị gì. Nhưng điều ấy không có nghĩa là giáo lý ấy chỉ dạy cho người mù. Không phải vì người mù mà không có ánh sáng. Sở dĩ người ta không thấy được ánh sáng là tại vì người ta mù, chứ không phải ngược lại. Cũng như thế ấy, người không tin Phật pháp thì dầu cho có Phật hiện thân cũng khó độ được; huống nữa là những pho sách vỡ hay kinh điển ấy. Thật ra nó chẳng có giá trị gì, vì người ta chưa đụng vào thực tế. Mà thực tế của cuộc sống là gì? Là con số không to tướng, điều ấy không có nghĩa là không có tội phước, địa ngục, cưc lạc hay cảnh giới khác v.v… Tất cả đều có và tất cả đều phải bị chi phối bởi nghiệp lực, vô thường, khổ, không, và vô ngã. Ai hiểu được điều nầy tức hiểu được giáo lý của Đức Phật.

Có một điều chắc chắn chúng ta biết rằng: không có ngày hôm qua thì sẽ không có ngày hôm nay và nếu ngày hôm nay không có thì ngày mai sẽ không có. Nhưng trước ngày hôm qua và sau ngày mai là những gì nữa thì do nhân và quả tạo thành cái giải luân hồi vô tận ấy và ta phải tin rằng: Nhân tốt sẽ không bao giờ sanh trái đắng và người hiền không bao giờ bị nhân quả hàm oan. Nếu có chỉ vì nghiệp xưa chưa trả hết và bây giờ cứ an phận mà trả cho món nợ vô hình kia thì: “Sau cơn mưa trời lại sáng” xin đừng than phiền và đừng trách móc ai. Vì tất cả đều do mình làm và tất cả mình phải gánh lấy hậu quả của nó. Không ai phạt ta cả; ngoại trừ ta tự gieo nhân không lành và cũng chẳng ai thưởng ta cả khi nghiệp dĩ vô minh của chúng ta vốn đầy sân si và tội lỗi.

Trong mọi kinh điển Đức Phật hay xác nhận rằng: Kẻ nhất xiển đề và kẻ phạm tội ngũ nghịch thì bị đoạ địa ngục và nhất định không được giải thoát. Tuy nhiên trong kinh Đại Bát Niết Bàn Đức Phật dạy rất rõ ràng là dầu cho nhất xiển đề hay tội ngũ nghịch mà có tin nơi Tam Bảo thì người ấy trước sau cũng có khả năng giải thoát, giác ngộ. Điều ấy cho chúng ta một sự khẳng định như trong Đại Trí Độ Luận nói rằng: Như trong một căn phòng tồi vô lượng kiếp (dụ cho vô minh) nếu ta mang vào căn phòng nầy một ánh đèn nhỏ, thì dầu cho căn phòng tối bao nhiêu lâu đi chăng nữa, căn phòng ấy vẫn có một chút ánh sáng (dụ cho chân lý giải thoát) và chính nhờ cái nhân sáng ấy, tức nhân có tin nhân quả, nghiệp báo, Niết bàn, địa ngục mà người ấy sẽ có khả năng thành Phật trong mai hậu.

Con đường đến với Đạo Phật có rất nhiều lối, không phải chỉ có đi lên hay đi xuống, đi qua đi lại, đi ngang đi dọc v.v… suốt cả một cuộc hành trình sanh tử như thế. Chỉ đến khi nào vô minh dứt sạch thì mọi chi nhánh của 12 nhân duyên không còn nữa và lúc ây Niết Bàn an lạc lại đến với mọi người, bất kể là ai.

Tôi mỗi năm có được những tháng ngày yên ổn như thế này để hành trì và dịch kinh viết sách, cảm thấy mình là người rất an lạc và hạnh phúc. Vì chân lý đang ở trong ta chứ không phải ở bên ngoài, và tất cả đều do ta tạo tác cũng như hưởng quả chứ không ai gieo thiện và không ai làm ác với ta. Vì tất cả chúng sanh mới là thiện hữu tri thức của mình. Tôi chỉ biết một điều duy nhất là: “Bồ tát sợ nhân còn chúng sanh sợ quả"mà thôi. Nên tôi phải hiểu mình là ai hơn là đi tìm hiểu kẻ khác là ai. Vì có kẻ khác nầy thì lại có thêm kẻ khác nữa. Ai công đâu mà phải đi tìm 6 tỉ nhân sinh như thế trên quả địa cầu nầy. Đó là chưa kể đến những chúng sanh khác ở thế giới nầy hay thế giới khác nữa. Vì:

“Công đâu công uổng công thừa

Công đâu gánh nước tưới dừa Tam quan”

Xứ Tam quan chắc là dừa nhiều lắm, người ta có muốn tưới cây không thể tưới hết nỗi. Do vậy bổn phận của mỗi người hãy tự tưới tẩm tâm thức của mình một chút hiểu biết, là cây giác ngộ sẽ có cơ hội đâm chồi nảy lộc rồi.

Tóm lại viết cho báo Tâm Giác lần nầy nhân lễ Vu Lan mà viết về Địa ngục, chắc chắn nhiều vị độc giả bảo rằng: ‘Tôi đem chuyện ma nhác con nít ngày hôm nay, là điều chúng chẳng sợ mà còn cười”. Xem ai đó có cười thì cứ cười. Vì sau nụ cười bao giờ cũng là tiếng khóc. Vì ai đó “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”. Khi nghiệp dĩ đã phát sanh, lúc ấy cứu chữa đã chậm lắm rồi. Như Đề Bà Đạt Đa, A Xà Thế, Vô Não.v.v… Đó là người đời xưa. Còn bây giờ nhiều nhà tù đang nhốt tù nhân trong đó; những nơi đày ải cải tạo ấy chẳng phải địa ngục là gì? Nhưng ở trong ấy nếu người nào còn có niềm tin, có sự hy vọng thì sẽ có tất cả. Vì tục ngữ Nga có nói rằng:

“Mất tiền là chẳng mất gì hết cả. Mất danh dự là mất một phần lớn của cuộc đời. Chỉ có ai đánh mất đi niềm tin và mất sự hy vọng mới là mất hết tất cả”.

Mong rằng quý vị đừng đánh mất một niềm tin.

Viên Giác Tự vào một sáng mùa hạ

Nhân mùa an cư kiết hạ năm Ất Dậu-2005

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/11/2021(Xem: 22467)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 14017)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
12/11/2021(Xem: 7401)
Cao nguyên Tây Tạng, ngoài Bắc cực và Nam cực, là bồn chứa băng tuyết to lớn nhất, và thường được xem là "Cực Thứ ba". Tây Tạng là nguồn cung cấp nước cho một số sông to lớn nhất trên thế giới, trong số đó gồm có sông Brahmaputra, sông Hằng, sông Indus, sông Mê-kông, sông Salween, sông Hoàng hà và sông Trường giang. Các con sông đó là nguồn sống, bởi vì chúng cung cấp nước uống, dẫn nước vào các hệ thống thủy lợi, giúp việc canh tác và sản xuất thủy điện, cho gần hai tỉ người trên khắp các vùng Á châu. Nhiều băng hà trên Tây Tạng tan thành nước, các công trình xây đập và đổi hướng sông ngòi, kể cả việc phá rừng quy mô đã khiến các hậu quả tạo ra bởi thái độ tắc trách về môi trường, ngày càng lan rộng khắp nơi.
09/11/2021(Xem: 5948)
Gần đây, tôi đã nhận lời mời của đài truyền hình trực tuyến quốc nội "thử niệm" (此念) để chia sẻ về Triết lý Giáo dục “tăng trưởng cuộc sống" (生命成長), trong hàng loạt bài Triết lý Giáo dục của Tôi. Sau đây là nội dung của cuộc phỏng vấn.
09/11/2021(Xem: 10306)
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành thiền quán tập trung 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thực hành Tứ Niệm Xứ, giúp người tu có được cái nhìn sâu sắc về vô thường, từ đó loại bỏ được những phiền não trong cuộc sống hàng ngày.
09/11/2021(Xem: 5787)
Điều đầu tiên chúng ta nhận thức vật chất, phải thông qua cơ thể của chính mình. Thậm chí có thể nói rằng, con người biết đến sự tồn tại của ý thức, thông qua cảm giác của thân thể. Ảnh hưởng của thân thể lên ý thức là điều hiển nhiên, giống như sự khó chịu và đau đớn do bệnh tật gây ra, khiến chúng ta nhận thức được sự tồn tại khách quan của tứ khổ sinh, lão, bệnh, tử.
08/11/2021(Xem: 7783)
Huế, không khí vẫn bình lặng, sự bình lặng làm cho những ai quen sống cuộc đời phóng túng phải kinh hãi và họ kinh hãi là phải lắm, vì rất ít ai có khả năng nghe được tiếng nói từ bình lặng và hiến dâng trọn vẹn cho sự bình lặng đó. Ngày xưa, khi những vị giáo sĩ ngoại đạo tranh cãi nhau, làm cho không khí xáo động hết bình lặng, hoặc tình cờ, hoặc vì chủ đích, đức Phật đi đến giữa chúng tranh cãi ấy, thì trong chúng đó họ tự bảo nhau: “Đức Gotama đến kia kìa! Ngài là bậc an tịnh, trầm lặng, Ngài không muốn ồn ào!”. Họ nói với nhau như vậy xong, họ liền giữ sự im lặng mỗi khi gặp đức Thế Tôn.
08/11/2021(Xem: 7568)
Mùa xuân là hình ảnh của con người. Tâm của con người như thế nào, nó sẽ tạo ra mùa xuân cho con người đúng như thế ấy. Tâm của một người xấu thì không thể nào tạo ra một mùa xuân đẹp cho chính mình, huống hồ gì họ có thể tạo ra một mùa xuân đẹp cho gia đình và xã hội. Mùa xuân là hình ảnh của cộng đồng người. Tâm thức của cộng đồng người như thế nào, họ sẽ tạo ra mùa xuân cho chính cộng đồng của họ đúng như thế ấy. Tâm của một cộng đồng người đặt đức tin của họ vào những thế lực ngoại tại, thì tự thân của cộng đồng đó sẽ tạo ra những biểu tượng thần thánh để tôn sùng và tô vẽ cho mùa xuân của cộng đồng họ qua hình ảnh thánh thần.
08/11/2021(Xem: 8944)
Sáng ngày 6/11/2021, tại thôn Nà Danh, xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, Đại diện Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN, và các nhà tài trợ doanh nhân Phật tử Công ty TNHH ToTo, Cục Hải Quan Hà Nội, Công ty Cổ Phần TM&DV Ngọc Hà, Công ty TNHH Kentetsu World Express Việt Nam, Công ty Cổ Phần Tư Vấn Công Nghệ Thiết Bị và Kiểm Định xây dựng CONINCO, cùng Đại diện Đảng ủy, Ủy ban Nhân dân xã Lê Lai đã tiến hành Khánh thành trường Mầm non trên địa bàn xã.
08/11/2021(Xem: 5479)
Thói quen của chúng sinh thường tự cho mình là trung tâm, và việc mãi mê những ham muốn vật chất không bao giờ thỏa mãn. Đối với mọi thứ trên đời, các bạn muốn sở hữu những thứ tốt, và từ chối những cái xấu, tức là tham lam và chán ghét. Khi tâm trí con người bị chi phối bởi hai thế lực này, họ không thể nhìn nhận sự việc một cách khách quan, và cách đối nhân xử thế dễ bị trục trặc. Một số người nổi tiếng, nhưng họ thực sự có hạnh phúc? Một số người không ngần ngại sử dụng các phương tiện không chính đáng để đạt được danh và lợi, chẳng hạn như làm hại người khác vì lợi ích riêng cho bản thân, hoặc ức hiếp đánh đập những người mà họ không thích. Mọi người không ngừng suy nghĩ về sự khác biệt, và họ có thể cảm thấy tội lỗi khi tỉnh giấc lúc nửa đêm dài trong mộng. Nếu tâm không thể thanh thản thì khó có thể gọi là một cuộc sống hạnh phúc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]