Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những gì là của ta và những gì thuộc về ta?

09/04/201313:00(Xem: 7420)
Những gì là của ta và những gì thuộc về ta?

Những gì là của ta và những gì thuộc về ta?

Thích Như Điển

---o0o---

Sống trên đời nầy, ai sinh ra rồi cũng phải có bổn phận, trách nhiệm và quyền lợi đối với chính bản thân mình và đối với cộng đồng xã hội và từ đó luật pháp được đặt ra để bảo vệ cho những quyền lợi và trách nhiệm đó. Nếu người nào vi phạm, tức có luật pháp là cán cân dùng để giải quyết mọi việc trong cuộc đời. Đó là đứng về phương diện tương đối của thế gian; nhưng điều nầy vẫn còn nhiều kẻ hở.

Riêng phương diện xuất thế gian và cái nhìn của đạo Phật bằng quan điểm: Tứ đại giai không thì giải thích những hiện tượng có và không, còn và mất, được và thua, khen và chê, đúng và sai như thế nào đây?

T“tứ đại giai không”có nghĩa là: bốn chất lớn đều không. Bốn chất lớn ấy là gì? Đó là đất, nước, gió, lữa. Đất từ đâu mà có? Ai sinh ra đất? Rồi đất ấy sẽ đi về đâu? - Cho đến bây giờ thật ra chưa có ai trả lời được câu hỏi nầy cả. Ta chỉ biết khi ta sinh ra thì quả đất nầy đã có rồi. Mặt trời, mặt trăng và sao mai kia cũng thế. Vậy hỏi làm chi những chuyện xa xôi ấy? Nhưng chính vì không hỏi nên mới sinh ra một sự chấp trước rất dễ dàng, nhất là khi mình tự cho rằng điều ấy đúng với mình.

Ta thấy từ đất đã mọc lên cây cỏ. Từ đất đã chứa cho ta không biết bao nhiêu là của quý như: vàng, bạc, kim cương, dầu lữa, quặng mỏ, thiết chì v.v... Từ lòng đất cũng là nơi cư trú của mọi loài côn tùng từ những loài sanh ra bằng trứng, những loài sanh ra bằng thai, những loài hóa sanh và những loài sanh ra chỗ ẩm thấp. Hoa nở thật đẹp cũng nhờ phân bón tốt. Khi hoa tàn rồi lại gởi xác mình vào lòng đất. Con người cũng thế, khi sinh ra cha mẹ mình cũng đặt mình lên mặt đất sau khi mở mắt chào đời. Rồi càng ngày càng lớn khôn, những bước chân đi đầu tiên của ta đã chập chững trên mặt đất rồi té xuống đất. Để rồi khi lớn lên, biết bao nhiêu sự thử tháchcam go trong cuộc sống, đã làm cho ta vấp ngã và té xuống đất. Rồi cũng từ đất ta chống tay đứng dậy, để lăm xả vào đời, chiến đấu với không biết bao nhiêu là sự cám dỗ đổi thay. Rồi một ngày nào đó ta phải buông xuôi hai tay vể nơi chín suối. Ấy cũng là lúc tấm thân nầy đem gởi xác ra ngoài đồng không mông quạnh. Làm phân bón cho cỏ cây, rồi cỏ cây cũng từ đó đâm chồi, nẩy lộc, sinh hoa, kết trái.

Còn nước thì sao? Nước từ đâu đến? Nước đi về đâu? - Ở đây chẳng ai có thẩm quyền để trả lời rằng: mây có trước hay nước có trước, cái nào tạo ta cái nào. Khi khai thiên lập địa thì nước từ đâu mà có?, v.v.. và v.v.. sao mà rắc rối thế? Mỗi lần ta uống nước, đâu có bao giờ ta phải bận tâm đến việc ấy đâu. Miễn là có tiền tài đi mua nước về mà uống chứ! Đó là cách lập luận nhị nguyên của mọi người. Vì cái nầy có cho nên cái kia có. Cái nầy sinh ra cái kia. Nếu cái nầy không có thì cái kia không có. Nhưng câu trả lời như thế nó vẫn chưa giải quyết được vấn đề. Bình thường khi uống nước ta đâu có bao giờ để ý; nhưng rủi một hôm nào đó đi khám Bác Sĩ và Bác Sĩ bảo rằng: Ông Bà mỗi ngày phải u��ng cho đủ hai lít đó. Lúc ấy mới đo lường, cân tính. Cố nhồi nhét cho đủ số lượng vào cơ thể của mình. Lúc ấy mình mới thấy nước cũng cần thiết đấy chứ!

Còn gió thì sao? Ai mang gió đến vậy? Gió từ đâu đến? Và gió đi về đâu? - Không biết rằng ông thần gió có khả năng trả lời hết tất cả những câu hỏi nầy hay không, chứ con người bình thường như chúng ta phải chịu thua. Nhưng chúng ta phải công nhận một điều là không có gió thì chúng ta cũng khó sống lắm đấy. Đặt biệt là hơi thở. Đâu có khi nào ta quan tâm đến nó. Từ khi sanh ra cho đến lúc trưởng thành rồi già, bịnh chết. Có ai đó siêng năng ngồi đếm thử ta đã thở được bao nhiêu lần rồi chăng? Nhưng khi bệnh ta thấy nhiều người khó thở là chiến đấu với tử thần trong từng gang tấc. Lúc ấy người bệnh kia và ngay cả chính mình cũng cảm thấy rằng gió hay hơi thở quả là cần thiết nhỉ? Phải làm gì để ta bảo vệ cho gió và khi ta mời gọi gió có ở lại ta chăng?

Lửa! Lửa là gì nhỉ? Tại sao có lửa? Lửa tử đâu sinh ra? Và ai sinh ra lửa? Có phải là trong cây có lửa hay lửa đốt thân cây? Thật là rắc rối. Không biết bao nhiêu là câu hỏi; nhưng làm sao trả lời cho hết đây. Thời buổi nầy cái gì cũng hiện đại hóa, không cần đi đâu xa, ở trong nhà chỉ cần bật gas lên là có lửa; nhưng người xưa để có lửa đâu phải đơn giản như vậy. Họ phải mang hai cục đá cọ xát vào nhau, hoặc giả lấy cây gổ nhọn, xoay vào thân cây gổ khác thì lửa mới sinh ra và từ đó họ mới có lửa để nấu ăn hoặc đốt rừng v.v... nhưng lửa ấy sẽ đi về đâu? Toàn là những câu hỏi gì mà khó trả lời vậy.

Có lẽ vì khó như vậy đức Phật chẳng muốn giải thích làm gì cho rắt rối thêm nữa. Mà nếu có giải thích đi chăng nữa loài có chịu hiểu cho chăng? Hay lại cứ thắc mắc hoài. Do vậy mà Phật đã nói rằng: Tứ đại giai không là đúng nhất. Nghĩa là không từ đâu đến và chẳng đi về đâu. Nghĩa là ở đâu đó khi cần là nó xuất hiện. Vì trong cái nầy nó có cái kia, trong cái kia nó có cái nọ. Cái mà ta đang mang trên người đây nó chỉ là một sự vai mượn mà thôi. Nếu một trong bốn chất ấy không còn đứng vững nữa thì thân cát bụi nầy sẽ trả về cho cát bụi. Vậy thì cái gì là của ta đâu? Cái đầu nầy là của ta? Cái tay? Cái chân? Cái hàm răng? Cái sự suy nghĩ? Thật ra chẳng có cái nào là chủ tể cả. Tất cả chỉ là những sự vai mượn mà thôi. Chỉ là vai mượn; nhưng lâu nay mình nghĩ là của chính mình. Do vậy mình muốn tất cả điều phải thuộc về mình. Ví dụ như tiền ấy phải là của mình. Người đẹp ấy phải là của mình, hột xoàn ấy là của mình. Đây là cái xe, cái tủ lạnh v.v... tất cả là của mình và thuộc về mình. Nếu nó không thuộc về mình thì mình phải cố gắng tranh đấu làm sao cho nó thuộc về mình bằng bất cứ giá nào. Miễn sao ta phải làm chủ cho được nó mới thôi. Nhưng khi làm chủ được nó rồi thì sao? Vàng kia vẫn là vàng, ngọc kia vẫn là ngọc, chứ ngọc đâu phải là mình, mình đâu phải là ngọc, vậy thì mình là ai đây mình là cái gì? Mình là ông Kỷ Sư, bà Bác Sĩ, ông Tổng Thống hay Bà Hoàng Hậu. Sau khi chết rồi thì sao nữa v.v... thật là những câu hỏi quá rắc rối. Nhưng trong cuộc sống bình thường mấy ai tự đặt ra. Vì còn mạnh khỏe là còn lao đầu vào những danh, lợi, ti��n, tình ấy để chiến đấu cho đã. Thế mà lúc cận tử nghiệp léo đến thì mới sực nhớ ra rằng: Aha! Có một lúc nào đó bên tai thoang thoảng có nghe rằng cuộc đời nầy là vô thường thế gian nầy là giả hợp... Bây giờ đã thấm rồi đó, đã rõ lắm rồi nhưng làm sao ngượng ngồi dậy được đây để chiêm nghiệm về sự vô thường đó. Ta muốn làm một cái gì đó cho thật ý nghĩa như lạy Phật một lạy, làm một chút phước để cứu người nghèo chẳng hạn; nhưng ôi thôi đã quá trễ rồi.

Vậy thì cái gì sẽ còn lại sau khi những thứ kia biến mất đi hoặc thay hình đổi dạng? Còn chứ! Đó là những việc làm, những hành vi tạo tác thiện hay ác, lành hay dữ ở đời nầy hay đời trước, tuy mình không thấy nhưng những gì mình đã vai, bây giờ phải trả đấy. Thế là thần thức chơi vơi nơi cõi không người. Biết nương tựa vào ai đây? Bình thường vốn ta chẳng quan tâm đến điều ấy và ta nghĩ rằng nghiệp đấy là của ai kia chứ, đâu phải là của ta. Vậy thì bây giờ phải làm sao đây? Phật ở đâu? Bồ Tát ở đâu? Lúc ấy mà còn nhớ được Phật và Bồ Tát hẳn là điều quý lắm. Chỉ có sợ đầu trâu mặt ngựa đến trước mặt liền để dẫn đi vào cõi Địa Ngục và đâu còn có cái Tâm sáng suốt bình thường để nghĩ tới Phật được?

Thế là tội nhơn phải ngụp lặn nơi chốn nại là, làm sao có thể khỏi khổ được? Chỉ có thân nhân nơi cõi thế mời Thầy đến nhà để cúng siêu độ, hoặc gia đình bố thí làm phước hoạ may người chết chỉ hưởng một phần bảy mà thôi. Còn những phần còn lại phải tiếp tục trả cho xong trong nhiều kiếp luân hồi nữa.

Bình thường ai khuyên ta niệm Phật, ta bảo còn sớm lắm. Để tôi lo cho gia đình, con cái, cháu chắt xong sẽ niệm chứ đâu có vội gì! Nhưng nếu bình thường không niệm Phật để trở thành thói quen thì khi tử thần đến gọi chỉ nhớ đến tiền của, con cháu chắt, chứ làm sao nhớ đến câu Phật hiệu được. Hãy nên tạo một thói quen để gieo vào tâm thức. Đó là câu niệm Phật.

Phật dạy trong kinh Kim Cang rằng: “Nhứt thiết Pháp giai thị Phật Pháp“, nghĩa là tất cả Pháp đều là Phật Pháp. Không cứ là pháp nầy hay pháp kia. Pháp nọ hay hơn pháp ấy nhưng lỡ pháp nầy không hợp với ta thì sao? Do vậy, mà hãy chấp nhận pháp nào mà mình cảm thấy thích hợp để theo là quý rồi. Theo như thế để huân tập chủng tử lành và nếu có lâm chung cũng có nơi chốn mà hướng về. Nếu không, tâm thần chỉ lơ lửng giữa khoảng u u minh minh ấy thì không biết là phải nương tựa vào chốn nào.

Phật dạy tiếp trong kinh Kim Cang rằng: “Những lời ta dạy cũng giống như chiếc bè. Pháp đúng còn phải bỏ huống chi là pháp sai“Thế nào là chiếc bè? Chiếc bè có nhiệm vụ đưa người qua sông hay nói xa hơn là giáo pháp ấy có nhiệm vụ đưa người qua khỏi cảnh khổ tử sinh. Khi qua sông rồi, thì nên quên chiếc bè ấy đi, đừng nhớ đến nó làm gì. Vì nó chỉ là phương tiện chuyên chở mà thôi.

Thế nào là chánh pháp còn phải bỏ, huống chi phi pháp? Chánh Pháp là những gì không thuộc về lời nói và sự đối đãi. Còn phi pháp là những gì mà mình nói là của ta và những gì thuộc về ta đó. Tất cả phải bỏ hết thì mới qua thuyền được chứ không sẽ chìm đấy.

Nếu vậy thì cuộc đời nó có cái ý nghĩa gì? Có chứ! Có cái tương đối của nó trong thế gian nầy, mà chúng ta chỉ là khách trần qua lại mà thôi. Do vậy, mà ca dao xứ Huế có câu rằng:

“Trăm năm trước thì ta chưa có.

Trăm năm sau có cũng như không

Cuộc đời sắc sắc không không

Trăm năm còn lại tấm lòng từ bi“

Rõ ràng là như vậy. Cuộc đời nầy dài lắm, lâu lắm rồi. Đâu phải là vì co ta cho nên trời đất mới hiện hữu. Đâu phải vì có ta cho nên đất, nước, gió, lửa, mới thành hình. Tật ra, ta nầy nó chảng là gì cả. Không một mảy may gì có ý nghĩa đối với cuộc đời nầy. Trpong vô lượng vô biên thế giới ấy, ta chưa bằng một hạt bụi mà. Có gì đâu để quan trọng hoá?

Rồi ta cũng phải ra đi một ngày nào đó thôi. Bởi vì cuộc đời nầy lúc thế nầy lúc thế nọ, lúc có, lúc không, lúc còn, lúc mất. Nếu có còn thì chỉ còn tấm lòng từ bi, tấm lòng nhân hậu đối với cuộc đời nầy mà thôi, Chứ thật ra chẳng còn cái gì cả. Thế mà khi còn sống chúng ta đã tranh danh đoạt lợi không biết mệt mõi. Chiến đấu để sống còn với hư danh, hảo tướng ấy. Ai hiểu được điều nầy và ai sẽ là người lên thuyền để qua bờ giác ngộ trước và từ luân hồi vào Tịnh Độ bao xa vậy? Thật sự ra thì nó cũng chẳng xa mà cũng chẳng gần. Gần như trong gang tấc mà xa thì thật là xa. Sự gần gũi ấy nó cũng giống như trái hồng từ lúc mới ra còn xanh, ăn vào sẽ thẫ chát, nhưng qua ngày tháng, qua sự xúc tác với ánh sáng mặt trời, hồn kia thay hình đổi dạng, biến thể từ từ. Từ chỗ chát đi đến chín muồi, ngọt lịm nơi môi. Tịnh độ hay luân hồi cũng chỉ thế thôi. Tịnh Độ có trong Luân Hồi và từ trong Luân Hồi chuyển sang Tịnh Độ, nhưng khi đã vào Tịnh Độ rời thì không chuyển lại Luân Hồi nữa. Ví như trái hồng đã ngọt rồi thì không còn chứa vị chát nơi đó. Còn khi xa thì xa bao nhiêu?

Cũng trong vòng sanh tử tử sanh ấy, chuyển từ loài nầy đến loài khác, nếu chúng ta có duyên may gặp được Phật Pháp, như trái hồng kia gặp ánh sáng mặt trời chiếu dọi, thì quả vị thành thục của Tịnh Độ đâu có xa - ở trước mắt. Còn nếu chẳng may sinh vào chốn tam đồ, nơi không có ánh sáng chân lý thì trái hồng kia vị chát ấy vẫn chưa biến đổi được, đôi khi lúc còn non đã phải rời khỏi thân cây mẹ rồi, cứ thế và cứ thế tiếp tục trong vòng trả vay vay trả ấy.

Như thế thì phải làm gì đây?

Dễ quá mà! phải tu và phải ý niệm được cuộc đời nầy là vô thường. Vì mình không bỏ nó thì nó cũng sẽ bỏ mình như hơi thở, nước kia, lửa nọ, đất nầy. Nó thật đơn giản. Điều quan trọng là ta phải ý thức những gì có hình tướng và ngay cả những gì không có hình tướng trên cuộc đời nầy thì chúng cũng chỉ là giả danh thôi chứ không phải là thực tướng và thực tướng ấy phải tìm bên trong chứ không phải bên ngoài và tìm nơi chính ta chứ không phải là ai xa lạ cả?

Nếu chúng ta tất cả đều hiểu lý duyên sanh về vô thường, khổ, vô ngã thì làm sao bị đắm nhiễm mãi trong biển trần lao nầy được. Hãy buông xả từ từ mọi sự đắm nhiễm và hãy xem tất cả chỉ là bọt bèo, giả tạm, không có gì là chủ tể cả. Vậy tất cả chúng ta hãy mau mau niệm cầu Phật hiệu Nam mô A Di Đà Phật để thành thục nơi chốn liên đài của cõi vô sanh.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 6371)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6404)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5561)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3894)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 3982)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4746)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4752)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5130)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
22/01/2021(Xem: 5278)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6553)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]