Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Đêm nghe tiếng chuông chùa Tam Bảo

07/08/201102:51(Xem: 11294)
2. Đêm nghe tiếng chuông chùa Tam Bảo

NHẬT KÝ HÀNH HƯƠNG
Trần Kiêm Đoàn

2. Đêm nghe tiếng chuông chùa Tam Bảo

Ngày 30 - 7- 2011

 

chuatambao-baton-rouge-smChùa Tam Bảo được xây dựng trên một rừng sồi xanh (live oaks) rộng hơn 4 mẫu Tây. Những cây sồi cổ thụ tuổi cả trăm năm, vươn cành che bóng nắng như những cây đa cao ngất từng xanh. Với người Việt thì đây là một ngôi chùa có tên Tam Bảo; nhưng người Mỹ lại biết đến nơi nầy như một trung tâm Thiền (Meditation Center). Lối kiến trúc cũng mang một tinh thần “Thiền Tịnh song tu” như thế. Cũng mái cong nhiếp tính âm dương, cũng cổng tam quan chánh phụ tương hòa nhưng những đường nét và bài bản kiến trúc cổ điển truyền thống như “song long chầu nguyệt, lưỡng long tranh châu, long ly quy phụng” thì lại rất mờ nhạt, hầu như không xuất hiện rõ mặt ở nơi nầy. Dáng uy nghi và mạnh mẽ từ cổng tam quan đến chánh điện; từ bảng tên chùa cho đến bệ thờ đức Phật của tổng thể kiến trúc đã làm cho cái nhìn đầu tiên của khách hành hương viếng chùa không trôi vào lối mòn của thế giới chùa viện cổ điển trên quê hương. Tầm nhìn trôi vào nẻo khác. Nẻo về của “sông chảy vào lòng nên đáy rất sâu.”

Đêm đầu tiên ở lại tại Chùa, tôi được ăn bữa cơm chay chiều không sửa soạn vì thức ăn buổi trưa vẫn còn. Tối lại, dự khóa lễ thường xuyên hàng ngày mở rộng cho mọi người, tôi có một cảm giác là lạ trong suốt hơn nửa giờ ngồi xếp bàn yên lặng định tâm – mà nói cho nó “sang” là bán già thiền định – tôi nghe được tiếng chuông chùa. Chuông đánh lên thì ai mà chẳng nghe. Nhưng thường khi, tiếng chuông gióng lên được nửa chừng thì tắt vì lỗ tai người nghe đã đầy ắp. Còn có khoảng trống nào đâu để dung nạp âm vang ngân vọng của hồi chuông cho trọn vẹn. Dư âm nhỏ mềm và uốn lượn của tiếng chuông ngân sẽ tràn ra để nhường chút khoảng trống hiếm hoi nào đó cho tiếng mõ, tiếng tang, tiếng quả lắc; có khi còn thêm tiếng trống, tiếng gõ nhịp trên thành chuông, vành trống nêm vào chật ních.

Thời kinh tối ở chùa Tam Bảo tương đối ngắn. Thời gian quỳ gối chưa quá 2 phút và bái lạy không quá nhiều. Nhưng dài nhất là thời gian tĩnh lặng định tâm. Hầu hết thời gian hành lễ không có sự “mê theo” tiếng tán xếp, tán rơi mà chủ yếu là đọc, hiểu và tin kính. Đồng tụng tối nay là một bài kệ thuần Việt trích từ phần phụ lục của Nghi thức Tụng Niệm giúp làm cho thêm trong sáng ý nghĩa của phẩm kinh Hán Việt Phổ Môn. Đó là bài kinh cầu an quan trọng nhất trong tín lý Đại Thừa; tuy vẫn tụng hằng ngày nhưng ít người hiểu trọn vẹn Phổ Môn Phẩm, tương tự như Bát Nhã Tâm Kinh, Phật Thuyết A Di Đà Kinh.

Một tâm lý chung rất thông thường là có hiểu mới biết quý; có thấm mới biết thương. Kinh văn tối tăm không hiểu nghĩa mà tụng đọc hằng ngằy để quý và thương là... thương vay quý mướn. Không thật!

Một thời nghi lễ đi qua mà còn lưu lại trong tâm thức người đã dự khóa lễ những khoảng không gian tĩnh lặng của chiêm nghiệm và tin kính là một thành công của vị trú trì chủ lễ. Người đến chùa dự lễ dẫu có bề dày tu học đến đâu cũng thường ở thế bị động. Ngưởi chủ lễ là nhạc trưởng của một dàn đại hợp xướng về nghi lễ.

Sau khóa lễ chiều, tôi trở về phòng nghỉ. Căn phòng nhỏ không có gì ngoài cái giường vải bố dã chiến, chiếc gối đơn sơ và một tấm mền mỏng vửa đủ đắp kín hai phần người. Đơn giản quá nên tôi không bị thứ tâm lý hưởng thụ hay kiểu cách thư giản hoa hòe tới quấy phá. Ở chùa cũng có những nhu cầu không khác ngoài đời: Cũng ăn, cũng mặc, cũng ngủ. Nhưng ngày xưa các bậc minh sư đã dạy: “Sung tài, đạo tán.” (Lắm tiền thì tan đạo.)Và, khuyên nên “Tam thường bất túc”. Nghĩa là phải để cho cái ăn, cái mặc, cái ngủ thiêu thiếu một chút thì đời sống mới thăng hoa về mặt tinh thần.

Đêm về, một chút thao thức đến với tôi vì hồi chiều uống liên tiếp mấy bình trà đậm với thấy Trú trì. Bốn bức tường trống trơn, đôi mắt ngấm nước trà ráo hoảnh. Nhìn đâu cũng chẳng thấy gì. Bụng êm ả không một chút quậy cựa, co thắt vì thịt cá. Cảm giác ngây ngây bia rượu thường ngày của những buổi chiều tối cũng không. Nằm trên giường bố vừa đủ ngã lưng. Vừa nhắm mắt lại để dỗ dành “giấc ngủ nước trà” thì mới cảm nhận cái thân xác “an phận” của mình trãi ra xa. Một thân xác mà phải chứa nhiều chất kích thích và bổ dưỡng sung mãn quá thì phải co lại mà đối phó với phản ứng sinh lý tự nhiên, làm gì còn chỗ cho Chánh Niệm hiện tiền.

Một chút gì thiêu thiếu giữa đêm khuya ở chùa Tam Bảo. “Tam thường bất túc” chăng?!

Tôi nghe như nguồn suối của tâm mình trải dài xa tít tắp. Khi thân tâm chẳng bị cột trói vào những giới hạn đời thường, không gian bên trong sẽ lớn lên vô hạn. Những thiền âm nội kết sẽ không còn bị che chắn mà vang vọng tới cõi vô cùng. Tôi nghe từ trong sâu thẳm của lòng mình có tiếng chuông đêm từ khóa lễ hồi chiều tối, vẫn còn ngân vọng u trầm.

Tiếng chuông là phương tiện thiện xảo của cửa thiền để mở ngõ vào đời sống tâm linh. Chuông không cầu, không chấp, không vọng, không trì. Tiếng đại hồng chung(chuông lớn) treo trên gác chuông đưa nhân gian vào cõi tịch tĩnh hư không. Tiếng trung thính chung(chuông vừa) trên bàn kinh đưa tập thể đạo tràng vào lễ nghi bái niệm. Tiếng tiểu văn chung(chuông nhỏ) giúp từng cá nhân tự mình an trú trong giới hạn hay phối hợp nhịp nhàng với tập thể thiền nhân.

Tiếng súng của cuộc chiến trên quê hương đã im từ hơn 30 năm trước, nhưng đến nay vẫn còn nổ lách tách, đì đùng đâu đó trong hoài niệm và trong lòng người. Sống cho quá khứ là chối bỏ hiện sinh. Tiếng súng muộn màng sau một cuộc chiến đã tàn thường là ngôn ngữ của hận thù, chối bỏ. Tiếng chuông là biểu tượng của yêu thương, tìm về. Lời ca đầy Bóng Mát của Phạm Thế Mỹ vẳng tới cùng với tiếng chuông đêm giữa quê người thao thức: “Bởi thương tôi, bởi thương em, bởi yêu em, nên ghét hận thù.”Người không thương chính mình trước thì sẽ không thương ai, yêu ai được cả. Có thương mình mới thương em, yêu em. Em là em, là bạn, là người thân, là hơi thở, là tiếng chim, là cây cỏ, là trăng sao mỗi ngày, mỗi đêm thường gặp. Với đạo Phật, làm được thân người thật khó. Trăm nghìn vạn kiếp sinh diệt nổi trôi mong gì một lần gặp lại kiếp người – bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ – nên thử lắng lòng nghe tiếng chuông. Chuông ngân như một cuộc hành hương từ chốn phong ba về vùng rỗng lặng: Tu (?!). Tu là tập sống làm người. Hướng một kiếp người gió bụi, nổi trôi về với ái hòa, an lạc.

Louisiana, chùa Tam Bảo.
Trần Kiêm Đoàn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5385)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4396)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5262)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5495)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8607)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6468)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6211)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4521)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9524)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5970)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]