Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duyên Khởi

14/07/201112:28(Xem: 6266)
Duyên Khởi

DUYÊN KHỞI

Là Phật tử, ai cũng mong có dịp đến chiêm bái, ít nhất là một lần trong đời mình, các thánh tích Phật Giáo tại Ấn Độ. Đọc lịch sử đức Phật, phần đông Phật tử đều biết đại khái qua kinh sách Phật giáo, rằng quê hương của đức Phật là vương quốc Thích Ca (SakyaKingdom), thành Ca Tỳ La Vệ(Kapilavastu). Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath)và nhập Niết Bàn (tịch diệt) ở rừng Sa La tại Câu Thi Na (Kusinagara); nhưng không phải ai cũng có duyên lành hành hương đến được đất Ấn để chiêm bái, chứng kiến tận mắt các Phật tích đó.

Từ lâu, ngay khi đang còn tu học ở Ấn Độ, khoảng hơn 30 năm trước, chúng tôi đã có ý định biên soạn một cuốn sách, viết đầy đủ về lược sử các Phật tích nói trên, để giúp cho Phật tử Việt Nam, dù chưa có dịp qua Ấn chiêm bái, vẫn hiểu biết được phần nào các Thánh Tích Phật Giáo thiêng liêng tại Ấn Độ, nhưng vì lúc ấy, quá bận lo đèn sách, nên chúng tôi chưa thực hiện được. Hoài bão này cứ ôm ấp mãi cho đến giữa năm 1977, vì nhu cầu Phật sự, chúng tôi đành rời quê hương xứ Phật trong luyến tiếc, để sang Hoa Kỳ.

Từ ngày đặt chân lên đất Mỹ, gần 8 năm qua, chúng tôi lại phải dấn thân vào sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh: lập chùa làm trụ trì, lãnh đạo, hướng dẫn Phật tử, nên rồi ngày lại, tháng qua, năm đến; cứ như vậy, cuộc đời người tu sĩ trên đất cờ hoa, mãi bận lo suốt ngày với không biết bao nhiêu Phật sự đa đoan chồng chất, đến nỗi hằng ngày không có chút thì giờ rảnh rỗi để nghỉ ngơi, còn nói chi đến việc đọc, và viết sách.

Tám năm nhanh chóng trôi qua như “bạch câu quá khích” (ngựa trắng chạy qua cửa sổ), đời người tăng sĩ, nhất là tăng sĩ Việt Nam nơi hải ngoại, với biết bao nhiêu khó khăn, gian lao thử thách, biến đổi thăng trầm; mãi đến hôm nay, nhờ nhân duyên Phật Pháp nhiệm mầu xoay chuyển, chúng tôi mới có hoàn cảnh để thực hiện nguyện ước hơn 30 năm trước của mình, là viết về lược sử các Thánh tích liên hệ đến cuộc đời cao siêu của đức Phật ở Ấn Độ.

Phật giáo ngày nay đã trở thành một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, chiếm hàng trăm triệu tín đồ khắp năm châu. Do đó, người Phật tử muốn thấu hiểu giáo lý của đức Phật, không thể không biết, hay biết lờ mờ và sai lạc về nơi nguồn gốc đã phát sinh ra Phật Giáo, và các Thánh tích gắn liền với đời sống vị giáo chủ của mình, là đức Phật ở Ấn Độ. Hơn nữa, kiến thức lịch sử về các Phật tích, sẽ soi sáng giúp chúng ta hiểu biết tường tận, với nhiều thích thú hơn, về cuộc đời của đức Bổn Sư Thích Ca Từ Phụ, và làm tăng thêm niềm tin ở chúng ta rằng, đức Phật là một Thánh nhân lịch sử có thật, không phải là một nhân vật thần thoại; với các di tích còn lại đến ngày nay, rải rác khắp nơi trên đất Ấn, mà chúng ta có thể đến chiêm bái tại chỗ, nhìn thấy tận mắt; dù đã trải qua hơn 2.500 năm, với những công trình khảo cứu, khám phá, xác nhận của các sử gia, và những nhà khảo cổ trứ danh Đông lẫn Tây Phương. Chính vì ý thức được tầm quan trọng, cũng như sự đóng góp lợi ích lớn lao của các Phật tích Ấn Độ, cho việc nghiên cứu và hiểu biết, nhất là làm tăng trưởng niềm tin Tam Bảo đối với hàng con Phật, trí thức lẫn bình dân khắp năm châu, mà sau khi Ấn Độ thu hồi độc lập từ chính quyền Anh quốc vào năm 1947, ông Jawaharlal Nehru (1989-1964), vị thủ tướng Ấn đầu tiên đã chỉ thị cho nhà cầm quyền các tiểu bang nỗ lực trùng tu, sửa sang lại tất cả những thánh tích Phật giáo Ấn Độ.

Hiện nay, di tích các Phật tích còn lại trên đất Ấn rất nhiều, ngoài năm thánh tích danh tiếng: Ca Tỳ La Vệ, Lâm Tỳ Ni, Bồ Đề Đạo Tràng, Lộc Uyển và Câu Thi Na; còn có bốn thánh tích quan trọng khác sau đây, đó là: thành Xá Vệ (Pali hay P: Savatthi; Sanskrit hay Skt.: Sravasti), nơi đức Phật đã thường trú 24 năm, và thuyết tại đây nhiều bộ kinh Đại Thừa quan trọng, trong đó có kinh A Di Đà, mà quý vị Phật tử thường tụng vào dịp lễ cầu siêu; thành Vương Xá (P: Rajagaha; Skt.: Rajagriha), nơi đức Phật đã thuyết kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu (tiếng Ấn: Gridhrakuta); Tỳ Xá Li (P: Vesali; Skt.:Vaisali), nơi đức Phật lần đầu tiên chấp nhận cho hàng nữ giới xuất gia; và Sankasya (P: Sankassa), ghi dấu nơi đức Phật đã từ cung trời Đao Lợi trở về trần thế, sau khi Ngài vận thần thông lên đó để thuyết giảng luận A Tỳ Đạt Ma (P:Abhidhamma; Skt.: Abhidharma) cho hoàng hậu Ma Gia (thân mẫu của Ngài) và chư thiên.

Ngoài 9 Phật tích trên, còn rất nhiều thánh tích khác như Nalanda, Kausambi v.v... là những nơi khi còn tại thế, đức Phật thường lui tới thuyết pháp cho dân chúng. Tất cả những Phật tích này, trong thời gian gần 12 năm du học tại Ấn Độ, chúng tôi may mắn có đầy đủ phước duyên, đã được đến chiêm bái, và tụng kinh cầu nguyện, nơi nào ít nhất cũng là 2 lần, nhiều thánh tích chúng tôi đến viếng thăm và lễ lạy tới 3 hay 5 lần.

Để giúp quý Phật tử hiểu biết qua, trước khi có duyên lành đến chiêm bái tại chỗ; mở đầu loạt bài viết về “Lược sử các Thánh Tích Phật giáo tại Ấn Độ”, chúng tôi xin giới thiệu trước hết, thánh tích Ca Tỳ La Vệ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2014(Xem: 7368)
Sáng nào tôi cũng đi thiền nhặt rác 2 - 3 vòng quanh công viên Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy. Vừa thong thả bước những bước thảnh thơi, không vội vàng, không suy tư vừa nhặt rác, nếu thấy có. Chân nhẹ bước, tay lượm rác, tay cầm rác, mũi hít thở không khí trong lành buổi ban mai. Hà Nội mùa thu đẹp lắm. Càng ngày tôi càng yêu mùa thu Hà Nội. Mùi hoa sữa vẫn thơm đầu ngày mới. Ánh mặt trời dần rạng tỏ sớm mai. Tôi mê ngắm mặt trời mọc và lặn từ bao giờ chẳng biết. Dù ở đâu cũng thấy bình minh và hoàng hôn đẹp vô cùng. Bagan hay Aytthaya. Siem Riep hay Ngũ Hành Sơn. Mandalay hay Chieng Mai. Hồ Tây hay Bồ Đề Đạo Tràng. Bà Nà hay Lâm Tỳ Ni. Đẹp vô cùng và thấy tâm an lạc và thảnh thơi đến khó tả.
31/10/2014(Xem: 8420)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 8283)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7679)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 8009)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9476)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 15062)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8643)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13418)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8934)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]