Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 20: Liên Trì Cảnh Sách

25/04/201116:08(Xem: 6958)
Chương 20: Liên Trì Cảnh Sách

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
Thích Quảng Ánh Việt dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Saigon 2007

Chương XX

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH

1. Then chốt thành công của sự tu hành

Vì chúng ta là phàm phu, mang lấy vô minh và nghiệp chướng từ vô thuỷ kiếp đến nay. Vì thế, trong sự tu hành, mỗi người đều có điểm mờ ám mà chúng ta không có cách gì để tự biết. Những điểm che mờ này rất có thể làm trở ngại đến thành quả tu hành của chúng ta. Vấn đề chính ở đây là có hay không một vị thiện tri thức sáng mắt, xem thấy rõ ràng và chỉ cho những điểm che mờ này. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta có thể khiêm nhường và hổ thẹn để cung kính lãnh thọ sự chỉ dạy của thiện tri thức hay không? Tiến tới là xét lại lỗi lầm, thật thà gạt bỏ những điểm che mờ nơi tự tâm. Đây là hai then chốt vô cùng quan trọng cho sự thành công trong việc tu hành.

2. Gặp thiện tri thức là nhân duyên lớn

Kinh Pháp Hoa nói rằng: ”Gặp thiện tri thức là nhân duyên lớn, nhờ sự dẫn dắt của thiện tri thức được thấy Phật”. Chúng ta vì nghiệp chướng sâu nặng nên sinh vào thời đại mạt pháp này. Phật pháp đã quá suy vi, tà sư nói Pháp vô số như cát sông Hằng, người học pháp tà không kể xiết. Nếu trong nhân duyên ngàn năm khó gặp này, chúng ta được gặp được một vị thiện tri thức chân thật. Mỗi người trong chúng ta phải nên hết lòng thờ phụng và dốc tâm hộ trì. Khiêm tốn thọ giáo và nên quý tiếc nhân duyên khó gặp này để khỏi cô phụ cơ hội ngàn năm khó gặp

3. Chuyển mê thành ngộ

Gặp được thiện tri thức là có nhân duyên lớn, chúng ta mới có dịp chuyển mê thành ngộ, cải tà về chánh, gạn đục thành trong. Trên đường tu hành hướng về mục đích giải thoát rốt ráo và thành thật. Đáng tiếc là chúng sinh phước mỏng, phần nhiều xem đến không biết đâu là thiện tri thức, bởi chúng sinh nghiệp chướng nặng. Người có thể biết được chắc chắn đâu là vị thiện tri thức thì lại quá ít. Không đáng thương sao!

4. Mắt mù dẫn người mù

Mỗi người tu hành đều cho rằng mình đã gặp được đại thiện tri thức, song hiện nay là thời mạt pháp, tà sư thuyết pháp như cá qua sông. Chúng ta có bị nghiệp chướng che lấp hay sao? Nên phải đi theo bọn thầy mù dẫn trò mù? Hoặc giả, theo đuổi tạm mượn Phật pháp để làm hạnh tà mà danh dự, vơ vét của cải ư? Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng mà mỗi người học Phật nhất định phải khéo léo kiểm nghiệm lại mình. Muốn giải thoát sinh tử không phải việc dễ dàng. Nếu gặp phải người mù chỉ dẫn không đúng đường, thậm chí là người ác cố ý dạy bạn đi sai đường. Ngày nay, tất cả sự nỗ lực của chúng ta đều đem đổ ra sông, nhân vì đi theo tà ma sau sẽ là con cháu nhà ma, đời sau sẽ đoạ địa ngục thọ khổ không kỳ hạn. Người học Phật không thể không thận trọng.

5. Phương pháp phân biệt thiện tri thức

Tự mình phân biệt đúng hay không đối với thiện tri thức, có thể chú ý đến mấy điểm sau đây của thiện tri thức:

Một thành thật niệm Phật: nếu chúng ta muốn đời này giải thoát sinh tử mà bỏ pháp môn niệm Phật thì không có bất kỳ pháp môn nào thành công. Thiện tri thức thầm biết rõ chúng sinh thời mạt pháp phước mỏng nghiệp dày. Tự mình phải nhất định chuyên tu Tịnh độ, thâm nhập một một tuyệt đối không xen lẫn, còn khuyên khắp tất cả thành thật niệm Nam mô A-di-đà Phật.

Hai, lấy giới làm thầy: thiện tri thức giới luật đã rất nghiêm, sống tu hành đâu đâu cũng lấy giới luật của Phật làm phép tắc. Rộng khuyên tất cả mọi người nghiêm giữ giới luật. Tuỳ thời tuỳ chỗ xét lại chính mình, tu sửa ngay thẳng chính mình.

Ba, giản dị, chất phác, bình thường, thật thà: thiện tri thức cẩn thận tuân theo lời Phật dạy. Khuyên làm việc chịu khó, biết tiết kiệm, tiếc phước đức. Trong sinh hoạt có thể tỉnh thì tỉnh, tuyệt đối không lãng phí. Không quản là ăn mặc hay đi đứng, tất cả cử chỉ nói năng đều chất phác, trong sạch, bình thường, thành thật. Lấy thân làm phép tắc, đem Phật pháp chân chánh thực hành ngay trong đời sống.

Bốn, không cầu danh lợi: thiện tri thức phải vì lợi mình lợi người, tuỳ duyên hoá độ chúng sinh. Chỉ là muốn cho chúng sinh thật sự thu được lợi ích của Phật pháp, lìa khổ được vui, tuyệt chẳng tham danh cầu lợi. Nhất quyết không mượn việc trong Phật pháp bòn rút vàng bạc, mang lấy hư danh.

Năm, chú trọng thực hành: thiện tri thức biết rõ nói suông vạn lời chẳng bằng hành một chữ. Muốn được lợi ích của sự học Phật, nhất định cần phải đích thân thực hành.

Nhân đây, đối với mọi người đặc biệt nhấn mạnh việc tu hành, trong tính chất trọng yếu của sự thực hành.

6. Nghĩ cho kỹ, xem cho rõ

Nếu chúng ta gặp phải người tu hành tất cả các pháp môn, nhưng tuyệt đối không niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc; nếu chúng ta gặp người không tuân thủ giới luật, ở đâu cũng tuỳ tiện và thích hợp, cúng có khi gặp người sống quá mức xa xỉ hoang phí vô độ; chúng ta còn gặp hạng người bận rộn bôn ba truy cầu danh lợi; đôi khi chúng ta còn gặp hạng người nói một đàng, làm một nẻo, chỉ trọng lý luận học vấn, xem thường việc tu hành thực tế… Tất cả những người ấy, chúng ta cần phải khéo léo tự tỉnh lại rõ ràng, xem chính mình đi đúng đường hay không? Phải nhanh chóng xa lìa bọn họ để tự mình khỏi dính sâu vào lỗi lầm, về sau có hối hận cũng không kịp.

7. Bức tranh vẽ thiện tri thức đẹp nhất

Người tu luôn giữ mức bình thường thì đạo đức càng cao, giữ tâm thành thật thì trí tuệ nhiệm mầu. Người đời rất thích thanh cao nhiệm mầu, nhưng không biết chỗ tột đỉnh của thanh cao mầu nhiệm chính là chỗ rất bình thường thành thật. Nhân vì tâm bình thường không quản là giàu sang hay nghèo hèn đều có thể thọ trì. Tâm thành thật không hạn ở nơi có hiểu biết cao hay thấp, không phân biệt hạng căn cơ tốt hay xấu, nếu thành thật đều có thể đem đến lợi ích. Người tu hành sở dĩ làm thiện tri thức chính là dùng đức tính bình thường và thành thật để dẫn đường, chân thật làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Như đây có thể biết “bình thường, thành thật” chính là bức tranh vẽ thiện tri thức đẹp nhất.

8. Nên làm người mắt sáng

Thiện tri thức chân thật không bao giờ cho rằng mình là thiện tri thức. Không phải người mắt sáng không thể thấy biết điều thiện này, còn ác tri thức không bao giờ cho họ là ác. Chẳng phải người mắt sáng không bao giờ phân biệt được điều ác này nơi họ. Chúng ta tu hành cần phải làm người mắt sáng, thấy rõ và lựa chọn thiện tri thức để phụng sự và gần gũi. Không nên vớ va vớ vẩn, ngây ngô dại dột, tu học loạn xạ như một tổ ong, bỏ phí mất cả một đời, lại còn lầm vào địa ngục là điều rất không nên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4711)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5013)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4510)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3741)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7553)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4744)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6173)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12130)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5350)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]