Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Quá trình diễn biến của đạo Phật

11/04/201100:49(Xem: 13207)
3. Quá trình diễn biến của đạo Phật

ĐẠO PHẬT XƯA VÀ NAY

Thích Hạnh Bình

PHẦN 1

ĐẠO PHẬT XƯA VÀ NAY

3.Quá trình diễn biến của đạo Phật

Nếu chúng ta nhìn Phật giáo như một thực thể sống, thì sự khai sinh của đạo Phật ở tại nước Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, tính cho đến nay, đạo Phật đã có tuổi thọ hơn 2.500 năm. Lịch sử truyền bá của đạo Phật đã ghi lại, vào những thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Phật giáo đã được nhà vua A Dục (Asoka) lập thành đoàn thể đem giáo lý của đức Phật truyền đến nước láng giềng là Tích Lan. Sau đó, bằng nhiều ngã đường khác nhau Phật giáo đã truyền đến Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào, Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam… Từ đó tiếp tục lan rộng khắp vùng Châu Á, và cho đến nay, Phật giáo đã truyền sang các châu lục khác. Sự tồn tại và phát triển của Phật giáo đã chứng minh Phật giáo có một sức sống mãnh liệt vượt lên trên cả thời gian và không gian, có lẽ nhờ Phật giáo có nền giáo lý tuyệt vời, có giá trị thiết thân với đời sống con người và biết uyển chuyển thích nghi với mọi đời sống xã hội khác nhau. Đó chính là những yếu tố cần thiết và cơ bản để đạo Phật tồn tại và phát triển cho đến ngày nay và ngay cả mai sau. Có lẽ đó là lý do tại sao từ tư tưởng và hình thái sinh hoạt của Phật giáo Nguyên thủy đã chuyển sang Phật giáo Bộ phái, rồi từ Phật giáo Bộ phái lại tiếp tục chuyển sang tư tưởng và hình thức sinh hoạt của Phật giáo Đại thừa. Cũng không phải đến đây là chấm dứt mà tùy theo tâm tình và hoàn cảnh của mỗi đất nước ở hiện tại và ngay cả mai sau, Phật giáo lại tiếp tục hình thành những tông những phái khác nhau để đáp ứng nhu cầu con người và xã hội. Phải nói rằng đây chính là tinh thần Bồ tát Quán Thế Âm trong Kinh Pháp Hoa,Ngài đã phát nguyện rằng: “Nếu có một chúng sanh nào muốn ta hiện thân của Đế Thích, Bà La Môn… để độ người đó thì ta liền hiện thân đế thích, Bà La Môn… vì người đó mà hóa độ…”. Tinh thần tùy cơ thuyết giáo của Phật giáo Đại thừa là tinh thần nhập thế, bất chấp hình thức nào và sự phản ứng nào, miễn là khi Bồ tát hành đạo dựa vào lòng từ bi và trí tuệ là đủ. Thế thì chúng ta tự cho mình là Đại thừa thì tại sao không dám nhập thế, đem tinh thần giác ngộ và giải thoát trình bày bằng một hình thức mới, phù hợp nhân tình và xã hội để cho con người được lợi ích, lại phải vay mượn những hình thức xưa cũ, đôi khi vô ý nghĩa, làm tiêu chuẩn tu tập cho con người hôm nay thực hành?

Từ những kinh nghiệm lịch sử đó, chúng ta nhận thức được rằng hiện nay Phật giáo đang đứng trước một thời đại tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, là một xã hội hoàn toàn mới, suy tư của con người cũng mới; vì vậy thật khó cho Phật giáo nếu cứ vay mượn một hình thức sinh hoạt hay cách lý giải nào đó trong quá khứ, làm kiểu mẫu, áp dụng cho xã hội và con người ngày hôm nay trong xã hội ngày nay. Trên thực tế, cách suy tư và nhận thức vấn đề của con người, và những nhu cầu xã hội của ngày hôm nay hoàn toàn khác biệt với những thời đại xa xưa. Chúng ta chỉ có thể ngang qua những hình thức sinh hoạt trong quá khứ, lấy đó làm nền tảng để đắn đo suy nghĩ và rút ra kinh nghiệm cho những vấn đề hiện tại và trong tương lai. Khi viết những suy nghĩ này, tôi vẫn biết là rất khó chấp nhận bởi một thế hệ người đi trước, đồng thời cũng hiểu rõ rằng, những nhu cầu của thế hệ trẻ ngày nay là một thực tế, không thể phủ nhận; tất nhiên nó không phải là những nhu cầu của thế hệ trước; và dĩ nhiên chúng ta không thể chỉ vì thế hệ trước mà cố tình quên đi sự sống của bản thân và thế hệ trẻ ngày nay, đang tràn đầy sức sống và đang cần sự giúp đỡ từ kinh nghiệm sống của đạo Phật. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên lợi dụng tinh thần “tùy duyên” của Phật giáo Đại thừa, vì thế hệ trẻ mà vượt qua những ranh giới truyền thống tư tưởng của đạo Phật. Trước tình hình đó, chúng ta làm thế nào chọn ra một hình thức sinh hoạt, mang tính dung hòa giữa hai thế hệ là giải pháp hữu hiệu nhất. Muốn thực thi điều này, theo tôi hai thế hệ cần ngồi lại với nhau nhiều hơn nữa, thành thật trao đổi cho nhau những đắn đo suy tư của hai thế hệ. Nếu đôi bên không có giải pháp nào khác, theo tôi chúng ta vẫn phải chấp nhận sự phê bình của thế hệ trước, tự lựa chọn và thiết lập một loại hình sinh hoạt mới, để thế hệ trẻ chúng ta chấp nhận, tiếp cận và hiểu được hệ thống giáo lý nhiệm mầu có ý nghĩa, giúp ích cho cuộc sống, nếu không Phật pháp sẽ bị mai một mà nguyên nhân chính là hình thức sinh hoạt và cách lý giải lời Phật dạy không đủ sức hấp dẫn lôi cuốn con người và xã hội hôm nay, nếu không muốn nói là viễn vông thiếu thực tế và mê tín. Tôi viết những điều này với một mục đích duy nhất, làm thế nào để Phật giáo được tồn tại và phát triển cùng với xã hội, đóng góp thiết thực cho con người và xã hội đó.

Rút ra một vài bài học kinh nghiệm thực tế từ sự diễn biến của Phật giáo trong quá khứ để chúng ta mạnh dạn hơn trong việc tìm ra một hình thức sinh hoạt thích nghi cho Phật giáo hiện nay, ở đây tôi muốn đề cập đến hai hình thức sinh hoạt của Phật giáo, đó là Phật giáo Thượng Toạ Bộ hay Phật giáo Nguyên thủyvà Phật giáo Đại Chúng Bộ hay Phật giáo Đại thừa.

Trước khi tìm hiểu về nội dung tư tưởng của hai trường phái lớn này, chúng ta cần nắm rõ nguồn tư liệu của hai nền Phật giáo này.

Trước nhất, nói về thánh điển của Phật giáo Thượng Tọa Bộ. Các nhà nghiên cứu cho rằng, các kinh A hàm và Nikàya là những bản kinh của Phật giáo Bộ phái, không phải của Phật giáo Nguyên thủy. Tuy nhiên, dù như thế nào đi nữa, nếu chúng ta căn cứ vào những bộ kinh này nghiên cứu và tìm hiểu tư tưởng và hình thức sinh hoạt của Phật giáo trong thời kỳ này, thì ở đó chắc chắn sẽ có được nhiều dữ kiện đáng tin cậy về Phật giáo Nguyên Thủy. Nếu chúng ta không căn cứ vào hai nguồn tư liệu này thì khó có thể hiểu được cái gì gọi là tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy hay Phật giáo Thượng Tọa Bộ. Vì thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy là thời kỳ khẩu truyền, kinh điển chưa được kết tập thành văn tự, hai bộ kinh này được kết tập vào lần thứ 3 vào thời đại vua A Dục.

Kế đến là nguồn tư liệu của Phật giáo Đại Chúng Bộ. Ở đây, chúng ta cần hiểu rằng, Phật giáo Đại Chúng Bộ không phải là Phật giáo Đại thừa, nhưng tư tưởng Phật giáo Đại Chúng Bộ là nguồn gốc để hình thành tư tưởng Phật giáo Đại thừa. Đáng tiếc là nguồn tư liệu của Phật giáo Đại Chúng Bộ không còn, điều này đã làm cho giới nghiên cứu đặt nhiều nghi vấn: Nguyên nhân nào kinh điển của Đại chúng bị thất lạc? Lý do tại sao? Hay là kinh điển của Đại thừa tức là kinh điển của Đại chúng? Hiện nay chúng ta chỉ có thể ngang qua những kinh điển của Phật giáo Đại thừa để tìm hiểu về tư tưởng của Phật giáo Đại chúng mà thôi.

Thế nào gọi là Phật giáo Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ? Theo nguồn tư liệu của Phật giáo Bắc truyền, cụ thể là tác phẩm “Dị Bộ Tông Luân Luận” ghi lại rằng, Sau khi đức Phật nhập diệt vào khoảng hơn 100 năm, dưới triều đại của vua A Dục (Asoka), nội bộ tăng đoàn Phật giáo có ý kiến bất hòa, tranh cãi về năm việc của Đại Thiên. Do đó Phật giáo bắt đầu rạn nứt, phân chia thành 2 phái: Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. Thế nhưng, theo nguồn tư liệu của Phật giáo Nam truyền cụ thể là tác phẩm “Kathàvatthu” lại cho rằng, sau khi đức Phật nhập diệt vào khoảng 218 năm, dưới thời vua A Dục, nội bộ Phật giáo phát sanh sự bất đồng ý kiến, chủ yếu tranh cãi về ‘Mười việc phi pháp’. Sự bất đồng ý kiến này đã dẫn đến sự phân chia Phật giáo thành 2 phái: Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ.

Qua 2 nguồn sử liệu này, cho chúng ta thấy sự ghi chép không đồng nhất về niên đại và nội dung tranh cãi, tạo thành chủ đề thảo luận cho giới nghiên cứu ngày nay. Với bài viết này, tôi không thảo luận đến khía cạnh niên đại hay nội dung tranh cãi, chỉ đề cập đến một góc độ khác là Phật giáo đến thời kỳ vua A Dục, nội bộ tăng già đã xuất hiện sự rạn nứt, chủ yếu là sự bất đồng quan điểm về cách lý giải lời dạy của đức Phật, trong đó bao gồm hai vấn đề then chốt là tư tưởng và giới luật. Kết quả của sự tranh luận này dẫn đến sự phân chia Phật giáo thành hai bộ phái.

Qua nội dung tranh cãi của hai nguồn sử liệu khác nhau ghi lại, người ta cho rằng Thượng Tọa Bộ là phái bảo thủ. Phái này mong muốn đời sống lời dạy của đức Phật không bị chi phối bởi thời gian và không gian, bởi ảnh hưởng những tập tục tín ngưỡng và văn hóa của xã hội. Có thể nói đó là lý do mà Phật giáo Thượng Tọa Bộ cố tình duy trì đời sống sinh hoạt của tăng già bằng sự tĩnh lặng trong rừng núi, cách ly đời sống ồn ào của xã hội, mới có thể an tâm tu tập thiền định. Ngược lại, Phật giáo Đại Chúng Bộ là Phật giáo cấp tiến, với lý tưởng muốn thực thi xã hội hóa Phật giáo, có nghĩa là sự tu tập của Phật giáo không chỉ dành cho giới xuất gia, sống đời sống đơn độc trong rừng núi, mà sự tu tập đó dành cho tất cả mọi người trong xã hội. Không giới hạn là người xuất gia hay tại gia, sống trong lòng xã hội vẫn có thể tu tập được, vẫn thành đạt sự giác ngộ và giải thoát. Trên thực tế, kết quả của việc xã hội hóa Phật giáo như thế nào thì chúng ta khó có thể giải thích về mặt chứng đắc, nhưng riêng về mặt hoạt động xã hội thì rất thành công. Đến đời vua A Dục Phật giáo được truyền đi khắp nơi trong nước Ấn và ngay cả truyền sang ngoại quốc, cụ thể là nước Thái Lan đã giới thiệu lời Phật dạy đến mọi tầng lớp trong xã hội. Nhưng trên phương diện tư tưởng, chúng ta cũng phải thừa nhận, chắc chắn Phật giáo chịu ảnh hưởng những tập tục tín ngưỡng dân gian. Do vậy Phật giáo càng ngày càng phức tạp, có khá nhiều vấn đề không lợi lạc cho Phật giáo cũng theo đó mà phát sinh. Ai là người đưa Phật giáo thành xã hội hóa đó? Theo tôi, nhà vua A Dục là người có công nhất, chính nhà vua là người ủng hộ, tạo thành tiền đề cho sự canh tân và phát triển, đưa Phật giáo vào xã hội, vì nhà vua đã đưa Phật giáo thành quốc giáo, lấy tư tưởng của đức Phật thay cho tư tưởng tôn giáo Bà la môn trước đây. Giờ đây tư tưởng của Phật giáo không chỉ dành riêng cho giới xuất gia tu tập mà cho người tại gia và cả xã hội, nó đã trở thành tư tưởng chủ đạo cho xã hội Ấn Độ. Có thể nói tinh thần đó được Phật giáo Đại thừa kế thừa và phát huy, nêu cao tinh thần ‘Bồ tát hạnh’.

Như đã được đề cập trong hầu hết các kinh điển Đại thừa, nổi bật nhất là hai kinh: “Duy Ma Cật” và “Hoa Nghiêm”. Nội dung tư tưởng của hai kinh này đề cao vai trò của người cư sĩ tại gia, còn quan trọng hơn là người xuất gia. Đây là vấn đề thực tế mà chúng ta cần phải nghiền ngẫm và suy tư; có thể xem đó như là một ‘công án’ để hình thành một xã hội Phật giáo đầy sức sống và năng động bằng hình thức là những người cư sĩ tại gia làm công việc hoằng dương Phật pháp, để cho giới xuất gia có nhiều thời gian tu học và thực nghiệm con đường giải thoát.

Ở đây, chúng ta thử đặt vấn đề, tại sao Phật giáo lại có sự chuyển biến như vậy? Nếu chúng ta đứng từ góc độ tình cảm hay niềm tin cá nhân đánh giá vấn đề thì câu trả lời đó sẽ như thế này hay thế kia, tùy theo niềm tin và tình cảm của mỗi người. Nhưng cách trả lời đó không phải là câu trả lời mà chúng ta muốn tìm hiểu ở đây. Theo tôi, để cho câu trả lời khách quan và được đa số người chấp nhận, chúng ta cần tìm hiểu bối cảnh xã hội khác nhau của mỗi thời kỳ Phật giáo. Tại sao Phật giáo Nguyên thủy hay Phật giáo Thượng Tọa Bộ lại chủ trương với đời sống xuất gia, sống trong rừng núi? Theo tôi có những nguyên nhân sâu xa như dưới đây.

Thứ nhất, đời sống xuất gia sống trong rừng núi vốn là truyền thống xuất gia của những người Bà la môn, nó không phải là hình thức sinh hoạt được sáng tạo bởi đức Phật. Sự tìm đạo giải thoát của đức Phật cũng không ngoài con đường chung này, và sau khi thành đạo, đức Phật cũng cảm thấy rằng, chỉ có con đường này mới có thể cắt đứt mọi sự ràng buộc của thế gian, an tâm trong việc tu tập, cho nên ngài khuyên dạy những người muốn tìm đạo giải thoát phải sống đời sống xuất gia, sống độc cư trong rừng núi, nhằm mục đích thực hành thiền định.

Thứ hai, mục đích của những người theo đức Phật xuất gia trong thời đó, chỉ có mục đích đơn giản và duy nhất là tìm cầu sự giác ngộ và giải thoát. Sau khi xuất gia, với đời sống xuất gia như vậy, không có điều kiện cho người ấy sanh khởi những ý niệm bất chính. Theo tôi, có lẽ đó là một trong những lý do chính đáng mà đức Phật đã khích lệ đời sống xuất gia ở trong rừng núi.

Thứ ba, một yếu tố khá quan trọng, với đời sống kinh tế vẫn còn lạc hậu của thời kỳ đức Phật còn tại thế, chữ viết chưa thịnh hành, không có kinh sách và những công cụ truyền bá lời Phật dạy, do vậy người nào muốn tìm cầu giác ngộ và giải thoát như đức Phật, chỉ có cách duy nhất là xuất gia với ngài, sống bên cạnh ngài và những người xuất gia cùng chung lý tưởng mới có thể học hỏi những kinh nghiệm tu tập. Theo tôi, đó là ba lý do chính đáng để lý giải vấn đề tại sao Phật giáo Nguyên thủy hay Phật giáo Thượng Tọa Bộ đề cao vai trò người xuất gia, sống độc cư tĩnh lặng trong rừng núi, đã được đề cập trong kinh điển A hàm hay Nikàya.

Ngược lại, tại sao Phật giáo Đại Chúng Bộ hay Phật giáo Đại thừa lại chủ trương xã hội hóa Phật giáo? Tất nhiên cũng có nhiều nguyên nhân mà trong đó nguyên nhân chủ yếu và quan trọng nhất là có liên quan đến chính sách của nhà vua A Dục: lấy Phật giáo làm quốc giáo. Nếu như trước đó Phật giáo chỉ là một đoàn thể xuất gia tu tập trong rừng núi thì đến thời kỳ này, Phật giáo đã trở thành tôn giáo chính của quốc gia - quốc giáo. Đứng trước một vị trí như vậy trong xã hội, Phật giáo không thể không có bổn phận và trách nhiệm trước xã hội và đặc biệt nhất là sự tín nhiệm của nhà vua. Để đáp ứng nhu cầu của nhà vua và hoàn thành trách nhiệm với vị trí là ‘quốc giáo’ này, Phật giáo không thể tìm nơi vắng lặng trong rừng núi tu tập thiền định mà phải sống trong lòng xã hội, giúp nhà vua chính sách trị nước an dân, bằng cách đem tinh thần ‘từ bi’ và ‘trí tuệ’ của đức Phật gieo rắc vào mọi tầng lớp trong xã hội. Đứng trước một cục diện như vậy, Phật giáo không thể không thay đổi những hình thức sinh hoạt của mình. Chuyển đổi hình thức sinh hoạt, Phật giáo Đại chúng bộ chấp nhận sự phê phán của Thượng Tọa bộ, đã mạnh dạn và quyết tâm đưa Phật giáo vào xã hội, thế thì không có lý do gì khi chúng ta tự nhận mình là Đại thừa, nhưng lại có tư tưởng bảo thủ, không chấp nhận sự cải cách của Phật giáo.

Phật giáo Đại thừa đã lấy vai trò 'trí tuệ’ làm ngọn đuốc chỉ đường và lấy tinh thần ‘xả’ làm ngọn cờ để vươn tới mục đích, bất chấp sự chỉ trích của Phật giáo Thượng Tọa Bộ. Đó là lý do tại sao Phật giáo Đại thừa đề cao con đường Bồ tát hạnh, như đã được mô tả trong các kinh điển của Phật giáo Đại thừa. Đối tượng mà Bồ tát hóa độ là mọi thành phần trong xã hội, từ những người Bà la môn đến những người nô lệ, từ vua quan đến những người thường dân, từ những người nông phu đến những bậc tri thức… đó chính là ý nghĩa đức Bồ tát Quan Thế Âm thị hiện nhiều hình tướng khác nhau để hóa độ chúng sanh như trong “Kinh Pháp Hoa” đã mô tả. Có lẽ đó là phương pháp duy nhất khi nêu cao tinh thần độ sanh của Phật giáo Đại thừa, dẫu rằng trong ấy ẩn chứa nhiều hình thức mê tín và thần thoại, nhưng đó là cách hay nhất để Phật giáo gần gũi với quần chúng.

Từ bài học thực tế này chúng ta nhận thức rằng, bản thân Phật giáo không có một hình thức sinh hoạt cố định nào để lấy đó làm tiêu chuẩn và duy nhất để cho mọi thời đại mọi con người phải noi gương theo. Tinh thần giáo dục của Phật giáo là tùy theo con người và xã hội, đức Phật tự thiết lập một hình thức sinh hoạt thiết thực, để đáp ứng cho nhu cầu của con người và thời đại đó. Nếu như không nắm rõ tinh thần ‘tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên’ của Phật giáo Đại thừa thì đó chính là tự mình bóp chết sự sống của Phật giáo, vì nếu không hiểu lý thuyết duyên khởi và vô thường của đạo Phật thì chính chúng ta là người xây bức tường cao và dày ngăn cản tuổi trẻ đến với đạo Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5383)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4394)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5260)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5492)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8602)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6463)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6205)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4516)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9517)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5970)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]