Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

VIII. Kết luận

10/04/201111:20(Xem: 10048)
VIII. Kết luận

TÌM HIỂU PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Thích Hạnh Bình

Phần 1

QUAN ÐIỂM TU TẬP TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

VIII. KẾT LUẬN

Có thể nói, kinh Tất Cả Lậu Hoặctrong Trung Bộ, tương đương với kinh Lậu Tậntrong Trung A Hàm, là bài kinh tiêu biểu cho quan điểm tu tập của đức Phật trong Phật giáo Nguyên thủy. Ý nghĩa và nội dung chính của kinh này, đức Phật đề cao vai trò trí tuệ và xác định giáo pháp của ngài dành cho người thấy, người biết, không phải cho người không thấy không biết, và chỉ có người thấy và biết mới có khả năng hiểu được lời dạy của ngài. Sự hiểu biết đó là nền tảng để hành giả tiến hành tu tập đoạn tận vô minh và phiền não, là nguồn gốc khổ đau của con người. Sự hiểu biết đó, được đức Phật mô tả là “như lý tác ý” hay “như thật tuệ tri”, là sự thấy và biết đúng với sự vật hiện tượng, không phải là sự hiểu biết của óc tưởng tượng, duy ý chí. Có thể nói, “Như lý tác ý” là kim chỉ nam cho những người làm công tác nghiên cứu khoa học, căn cứ vào quá trình diễn biến của sự vật tiến hành nghiên cứu, hệ thống đánh giá và phê bình.

Một điểm đặc biệt của kinh này, đức Phật trình bày bảy phương pháp khác nhau để đoạn trừ bảy hiện tượng phiền não khác nhau, vì chúng xuất phát không cùng một điểm. Ðó là: 1- có những loại phiền não xuất phát từ thiếu tri kiến, muốn đoạn trừ chúng, phải do tri kiến đoạn trừ; 2- có những loại phiền não xuất phát từ thiếu sự phòng hộ, muốn đoạn trừ chúng, phải do phòng hộ đoạn trừ; 3- có những loại phiền não xuất phát từ thiếu sự thọ dụng, muốn đoạn trừ chúng, phải do thọ dụng đoạn trừ; 4- có những loại phiền não xuất phát từ thiếu sự kham nhẫn, muốn đoạn trừ chúng, phải do sự kham nhẫn đoạn trừ; 5- có những loại phiền não xuất phát từ thiếu sự tránh né, muốn đoạn trừ chúng, phải do sự tránh né đoạn trừ; 6- có những loại phiền não xuất phát từ thiếu sự trừ diệt, muốn đoạn trừ chúng, phải do sự trừ diệt đoạn trừ; 7- có những loại phiền não xuất phát từ thiếu sự tu tập, muốn đoạn trừ chúng, phải do sự tu tập đoạn trừ.

Qua bảy phương pháp khác nhau đoạn trừ phiền não này, cho chúng ta nhận thức rằng, quan điểm tu tập của đức Phật trong Phật giáo nguyên thủy rất thực tế và rất khoa học, không trừu tượng mơ hồ, không mang màu sắc tín ngưỡng, không chứa đựng ý nghĩa thần bí, đặc biệt là với phương pháp luận rất sắc bén và logic. Bất cứ ai, dù ở vị trí nào trong xã hội cũng dễ dàng chấp nhận nội dung lời giảng dạy mang tính khả thi và có khả năng dẫn đến giải thoát. Ðồng thời, nó nói lên tinh thần tu tập của đức Phật nguyên thủy không giới hạn dưới bất cứ hình thức nào, cái gì có khả năng làm giảm bớt hay tiêu diệt những phiền não khổ đau của con người, cái ấy được xem là phương pháp tu tập trong đạo Phật, ngược lại bất cứ hình thức nào, dù mệnh danh là gì đi nữa nhưng không làm giảm bớt khổ đau và phiền não thì cái ấy cũng không được xem là phương pháp tu tập trong Phật giáo.

Lời cuối cùng, người viết hy vọng rằng, với tinh thần giảng dạy của đức Phật trong kinh này, giúp cho con người có cuộc sống thật vui và đầy hiểu biết, đóng góp cho xã hội trong công cuộc xây dựng một xã hội trật tự và đạo đức, tiến bộ và văn minh.


[1]Kinh “Ví Dụ Con Rắn” trong kinh Trung Bộ, đức Phật dạy: “Này chư Tỷ-kheo! Xưa cũng như nay, ta chỉ nói lên sự thật về khổ và sự diệt khổ...”; trong kinh “Tạp A-hàm”, kinh số 760, đức Phật cũng dạy rằng: “Thế gian có 3 điều không vui, không ưa thích, không nghĩ nhớ, đó là già, bịnh và chết, thế gian không có 3 điều này thì Như lai không xuất hiện ở thế gian, thế gian cũng chẳng có Như lai nói pháp, nói giới...”.

[2]Xin tham khảo kinh “Tạp A Hàm”, kinh số 212, đúc Phật dạy: “Ta không vì tất cả Tỳ-kheo nói hạnh phóng dật, cũng không phải không vì tất cả Tỳ-kheo nói hạnh không phóng dật...”.

[3]Theo nguồn tư liệu Bắc truyền (Hán tạng) - “Dị Bộ Tôn Luân luận” cho rằng, sau khi đức Phật nhập diệt vào khoảng 100 năm, nội bộ Tăng đoàn Phật giáo phát sinh sự bất đồng ý kiến về 5 việc của Ðại Thiên (Deva), bắt đầu phân chia thành hai phái: Thương tọa bộ và Ðại chúng bộ. Nhưng theo nguồn tư liệu của Phật giáo Nam truyền – “Luận Sự” (Kathàvatthu) cho rằng, sau khi đức Phật nhập diệt khoảng 218 năm, mới phát sinh sự phân chia Tăng đoàn. Tranh chấp vấn đề cũng không đồng nhất.

[4]Lữ Trưng, “Ấn Ðộ Phật giáo tư tưởng khái luận”, tr.28, Taipei, NXB Thiên Hoa, Dân quốc năm 82.

[5]Là một tấm vải được qui định kích thước, để cho Tỷ-kheo sử dụng khi ngồi thiền hoặc ngủ nghỉ.

[6]Thế Hữu (Vasumitra) tạo, “Dị Bộ Tôn Luân luận” (ÐCT 49).

[7]HT. Thích Minh Châu dịch, kinh Trung Bộ tập 1, trang 19-29, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1992.

[8]Viện Cao đẳng Phật học Hải Ðức Nha Trang dịch, kinh Trung A Hàm tập 1, trang 91-98. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1992.

[9]Xem kinh “Tạp A Hàm”, Kinh số 271, (ÐCT2.p.71).

[10]Xem kinh “Tạp A Hàm”, Kinh số 389, (ÐCT2.p.105).

[11]Chỉ cho giáo pháp đức Phật. Giáo pháp của Phật là chân lý của cuộc sống, do vậy, chữ “pháp” ở đây mang ý nghĩa là những nguyên tắc sống để được hạnh phúc và an lạc.

[12]Xem kinh “Tạp A Hàm”, Kinh số 638 và 639, (ÐCT2.p.176-177).

[13]Kinh “Trung A Hàm”tập 4, Viện Cao đẳng Phật học Hải Ðức Nha Trang dịch, kinh “Tiễn Dụ”, Viện NCPHVN ấn hành, 1992.

[14]Kinh Trung Bộ tập I, sđd, tr. 19-20.

[15]4 thức ăn: (1). Ðoàn thực là những thức ăn hay uống để nuôi dưỡng thể xác; (2). Xúc thực là sự tiếp xúc giữa 5 căn và 5 trần; (3). Thức thực là món ăn thuộc về tinh thần; (4). Tư niệm thực là ý chí muốn sống.

[16]Rất nhiều kinh trong “Kinh Trung Bộ”.

[17]Kinh Tương Ưng tập V, “Ðạo Tương Ưng”, HT. Minh Châu dịch, Viện NCPHVN ấn hành, trang 9-10. Ðức Phật dạy: “Vô minh là nguồn gốc của phiền não, đưa đến thành tựu các pháp bất thiện”.

[18]Walpola Rahula, “What The Buddha Taught”.

[19]Xem kinh “Tạp A Hàm”, kinh số 830-849, sđd.

[20]“Kinh Trung Bộ” Tập I, sđd.

[21]Kinh Tương Ưng tập III, “Uẩn Tương Ưng. Phẩm Hoa”, HT. Thích Minh Châu dịch, Viện NCPHVN ấn hành, trang 272-273.

[22]HT. Thích Minh Châu dịch, kinh Tương Ưng tập I, Phẩm “Hoan hỷ”, Viện NCPHVN ấn hành, trang 27, đức Phật nói: “Pháp này thuộc hiện tại, không bị thời gian chi phối, đến để thấy, có khả năng hướng thượng, chỉ người trí mới chứng hiểu”; Kinh Tương Ưng tập III, “Uẩn tương ưng” trang 249, đức Phật nói: “Cái gì người trí nói có, ta cũng nói có, những gì người trí nói không, ta cũng nói không.”

[23]Ðức Phật giảng 4 niềm tin bất động: Tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin Giới, phần nhiều giảng cho người cư sĩ tại gia. Lý do vì trong thời đức Phật còn tại thế, đức Phật và Tăng đoàn sống trong rừng núi, không phải sống trong thôn xóm hay thành thị, hơn nữa, trong thời ấy không có phương tiện truyền bá giáo pháp như ngày nay, bao gồm những loại: truyền thanh, truyền hình, băng từ, kinh sách... Do vậy, người tại gia rất khó có cơ hội học hỏi Phật pháp. Ðức Phật khuyên người tại gia cần có 4 niềm tin bất động, mục đích làm điều kiện để cho Phật pháp tăng trưởng. Ðồng thời là điều kiện cơ bản để ngăn chặn những tệ đoan xã hội.

[24]Xin tham khảo kinh Tạp A Hàm, kinh số 334, hay Kinh Trung Bộ, kinh “Ða Giới”; kinh Trung A Hàm, kinh “Phân Biệt Sáu Giới”, sđd.

[25]Lữ Trưng, “Ấn Ðộ Phật học tư tưởng khái luận”, chương một. NXB Thiên Hoa, Ðài Bắc.

[26]“Kinh Trung Bộ” tập 1,sđd, trang 19-20.

[27]HT.Thích Minh Châu dịch, kinh Trung Bộ tập 2, kinh “Ví Dụ Con Rắn”, Trường Cao cấp Phật học Việt Nam II ấn hành,1986.

[28]Xem kinh Tạp A Hàm, kinh số 104. (ÐCøT2).

[29]Thế Hữu tạo,“Dị Bộ Tôn Luân luận”(ÐCT 49).

[30]“Xá Lơï Phất A Tỳ Ðàm luận”, “Phẩm nhập”, (ÐCT 28).

[31]HT.Thích Minh Châu dịch, kinh Trung Bộ tập 2, kinh “Ví Dụ Con Rắn”, Trường CCPHVN II ấn hành,1986.

[32]Chỉ cho sắc, thinh, hương, vị, xúc là những pháp thuộc ở bên ngoài.

[33]Chỉ cho những quan điểm, những kiến chấp sai lầm.

[34]Kinh Trung Bộ tập 3, kinh “Ða Giới”, sđd.

[35]Kinh Trung Bộ, sđd, trang 20-21.

[36]Chỉ cho những người không hiểu rõ Phật pháp, chưa chứng ngộ chân lý.

[37]Là những khổ đau phiền não do tham dục mà sinh.

[38]Là những loại phiền não do chấp thường mà có.

[39]Là những loại phiền não, do ngu si mà sinh.

[40]Viện Cao đẳng Phật học Hải đức Nha Trang dịch, kinh Trung A Hàm tập 4, kinh “Tiễn Dụ”, Viện NCPHVN ấn hành, 1992, trang 747.

[41]Là sự chấm dứt lòng tham lam, sân hận và ngu si.

[42]Xin tham khảo: Thế Hữu “Dị Bộ Tôn Luân luận”, ÐT 49.

[43]“Kinh Trung Bộ” tập 1, trang 27.

[44]“Kinh Trung Bộ” tập 1, trang 27.

[45]“Kinh Trung Bộ” tập 1, trang 27-28

[46]“Kinh Trung Bộ” tập 1, trang 28.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/04/2015(Xem: 8631)
Từ ngàn xưa, con người đã hằng nung nấu, ôm ấp ước mơ được trường sinh bất tử. Tuy nhiên, sự bất tử trường sinh dường như chỉ thấy có được trong những câu chuyện thần thoại hoang đường, hay truyền thuyết mơ hồ viễn vông.
11/04/2015(Xem: 9168)
Nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới với một nền văn minh ngày càng rực rỡ. Khoa học hiện đại được xem gần như là vạn năng, phục vụ mọi nhu cầu vật chất trong đời sống của con người. Thế nhưng, con người đã thật sự hạnh phúc, thật sự chấm dứt khổ đau hay chưa? Đó là điều chúng ta cần phải suy gẫm.
10/04/2015(Xem: 10678)
Người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nên những khi mơ màng lơ đãng, lúc thả hồn đi hoang, khi u buồn khắc khoải, lúc mộng mơ vượt rào, khi hạnh phúc dâng tràn, lúc bồn chồn lo lắng, sẽ khiến cho người đối diện dễ dàng phát hiện ra những thầm kín chôn dấu đó đây. Đôi mắt người thương kẻ nhớ đôi mắt lo sợ bất an đôi mắt chứa đầy buồn vui, đôi mắt nhìn đời với toàn màu hồng choáng ngợp hạnh phúc hay đong đầy hệ lụy khổ đau, đều tùy thuộc vào tầm nhìn sự xúc cảm những bất an biến động nổi dậy, hay sự bình yên lan tỏa trong tâm thức mỗi chúng ta.
10/04/2015(Xem: 9061)
Bài pháp với đề tài thực dụng “Đem sự tu tập vào đời sống” đã được Ni Sư Tenzin Palmo trình bày với phong cách đơn giản mà tinh tế, linh hoạt cuả bà. Ni Sư chấm dứt bài giảng, nhìn thính chúng, mỉm cười chờ đợi những câu hỏi của các Phật tử tham dự. Chánh điện Thiền Tự Tiêu Dao sinh động hẳn lên và hội chúng tranh nhau đưa tay xin hỏi. Thông qua sự thông dịch của hai em Phật tử, Ni Sư từ tốn giải đáp từng thắc mắc về cá nhân Ni Sư, về cuộc sống đời thường cho đến các ưu tư về trải nghiệm thiền tập...
10/04/2015(Xem: 8092)
Lần đầu tiên cùng mấy người bạn nước ngoài về thăm Hà Nội vào đầu thập niên 90, tôi vẫn không quên những tấm bảng nguệch ngoạc hai chữ “Thịt Cầy” cùng mấy chú cầy nướng treo lủng lẳng trước dăm ba quán ăn nhỏ trên đường từ phi trường vào trung tâm thủ đô. Biết mấy anh bạn da trắng vốn kỵ thịt chó, tôi bảo họ rằng đấy là những quán bán “thịt nai”! Mãi sau thì họ khám phá ra được và phì cười bảo rằng những con nai của tôi là… “nai biết sủa” (barking deer).
09/04/2015(Xem: 7604)
Tokyo, Nhật Bản, ngày 6 tháng 4 năm 2015 – Vào buổi sáng, đức Đức Đạt Lai Lạt Ma đã có buổi tiếp thân mật với một nhóm các Nghị sĩ Nhật Bản để thảo luận các vấn đề cùng quan tâm. Sau khi ăn trưa, Ngài tham gia vào một Diễn đàn Môi trường toàn cầu cho các thế hệ kế tiếp, tại Yomiuri Hall, Tokyo, Nhật Bản. Sau khi Xướng ngôn viên giới thiệu xong, Ngài phát biểu rằng: Anh chị em quý mến ! Thật là một vinh dự lớn và hân hạnh được cùng quý vị chia sẻ trên tình Bồ đề quyến thuộc với nhau. Đó là truyền thống của chúng tôi, tôi nghĩ rằng đã là Bồ đề quyến thuộc trong tình pháp lữ, chúng ta đã biết nhau, tình pháp lữ chúng ta mãi cho đến ngày cuối cùng của mình. Tôi thật cảm động được kết duyên thêm nhiều pháp lữ.
08/04/2015(Xem: 7359)
Cách khoảng 800 km chuyến bay từ Tokyo đến Sapporo, một cuộc hành trình hoằng pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma tại Nhật Bản. Tokyo bầu trời xanh mây trắng bãng lãng, mùa xuân hoa Anh đào nở rộ như một tin vui đón chào một vị Thánh tăng quang lâm. Ngược lại vùng Hokkaido vẫn còn chút mùa Đông tuyết trắng se lạnh. Ngài là vị khách mời đặc biệt của các chi nhánh Sapporo thuộc Junior Chamber International (JCI), một tổ chức xã hội phi chính phủ quốc tế, phi lợi nhuận.
08/04/2015(Xem: 6648)
Ngày nay, 95% dân số Thái Lan theo đạo Phật. Truyền thống xuất gia gieo duyên cho thế hệ trẻ thanh thiếu niên trong cộng đồng là một nét đẹp mà xã hội quốc gia này và các nước theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy như Thái Lan, Lào, Campuchia, Sri Lanka, Myanmar, hay như vùng dân tộc Khmer ở miền Tây Nam bộ của Việt Nam. Mỗi năm tại các Tự viện Phật giáo Thái Lan đều tổ chức lễ xuất gia gieo duyên cho những thanh thiếu niên trong cộng đồng. Một năm tổ chức một vài lần.
08/04/2015(Xem: 8852)
Có một chị bạn rất kính tin Bồ-tát Quán Thế Âm nói với tôi rằng: Khi mẹ của chị bệnh nặng, tưởng chừng như sắp mất, chị ấy đã khấn vái, cầu xin Bồ-tát hãy cứu mẹ và chị chấp nhận chịu giảm đi 10 năm tuổi thọ của mình để cho mẹ được sống. Và thật là mầu nhiệm, mẹ chị ấy đã được Bồ-tát cứu giúp, không chỉ khỏi bệnh mà còn sống thêm vài năm nữa mới mất. Chị rất vui về hạnh hiếu này dù đã mất đi 10 năm tuổi thọ. Tôi cũng kính tin Bồ-tát nhưng không chấp nhận việc Ngài sẽ giúp ai đó “chịu giảm thọ để cho người khác sống lâu thêm” vì ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc, không ai có thể chịu tội hay gánh nghiệp thế cho ai. Vậy trong trường hợp của chị ấy thì giải thích như thế nào, nhờ Bồ-tát linh ứng, hay nhờ người con đã gánh bớt nghiệp cho mẹ?
07/04/2015(Xem: 10684)
Như một làn điện chớp sẹt ngang đầu khi thiên hạ nghe tin khó tưởng, cô Hoa Lan lắm lời vừa phát nguyện Tịnh Khẩu. Vâng, chuyện có thật các bạn ạ! Chẳng những Hoa Lan mà còn cả hơn 50 giới tử tham dự buổi Thọ Bát Quan Trai do thầy Hạnh Bảo hướng dẫn tại chùa Linh Thứu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]