Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07-Tu có chuyển được nhân quả không?

27/02/201104:59(Xem: 6556)
07-Tu có chuyển được nhân quả không?

TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
HT. Thích Thanh Từ

Tu có chuyển được nhân quả không?

Từ lâu, chúng ta thường nghenói gieo nhân nào thì chịu quả nấy, tức là ai tạo nhângì thì phải thọ quả báo đúng như vậy, không sai. Song, trongkinh Phật có dạy như vậy không? Đây là điều mà chúng taphải tìm hiểu cho tường tận, vì đa số người mới tu đềunghĩ rằng: Xưa kia làm điều tội ác, ngày nay tu hành là monggiảm bớt khổ đau. Nhưng, nếu trước đã gây nhân nào sauphải chịu quả nấy thì tu để làm gì? Tu cốt cho hết khổ,mà nếu gây nhân nào phải thọ nhận quả nấy thì tu đâucó hết khổ? Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa nông cạn, đơngiản là tác nhân nào thọ quả nấy thì sẽ thối tâm khôngtu được. Lý nhân quả của đạo Phật không cố định làtác nhân nào thọ quả nấy, mà cũng không phải tác nhân màkhông thọ quả, nó rất phức tạp.

Kinh A Hàm Phật có dạy: Ngườigây nhân bất thiện, trước hoặc sau họ biết tu thân, tugiới, tu tâm thì quả sẽ đổi thay. Nếu người gây nhânbất thiện mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gâynhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy vàgây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi thay.

Phật có ví dụ một nắm muốinếu hòa tan trong tô nước lạnh thì tô nước ấy mặn khônguống được. Cũng nắm muối đó, nếu hòa tan trong lu nướclớn dung lượng độ vài ba trăm lít thì nước trong lu sẽuống được, nhưng vị nước hơi mẳn mẳn. Và nếu nắmmuối đó hòa tan trong một hồ nước dung tích bốn năm ngànlít, nước không còn mặn, dùng xài bình thường. Nhân bấtthiện là dụ cho vị mặn của nắm muối hòa tan trong tô nướcthì quả cũng mặn không giải khát được. Nếu nhân mặncủa mắm muối hòa tan trong lu nước thì quả mặn loãng ra,nước có thể tạm giải khát được. Nếu nhân mặn củamắm muối hòa tan trong hồ nước lớn, thì quả mặn khôngthấm vào đâu, nước dùng xài bình thường.

Cũng vậy, người mà không biếttu thân, tu giới, tu tâm tạo nhân ác thì trả quả ác nguyênvẹn dụ như nắm muối tan trong tô nước, không giải khátđược. Nếu người biết tu thân, tu giới thì dụ như nắmmuối tan trong lu nước, tuy vị nước mẳn nhưng cũng tạmdùng được. Còn người biết tu thân, tu giới, tu tâm dụnhư nắm muối tan trong hồ nước to, vị nước không mặn,dùng xài bình thường. Vậy, nếu tu thân, tu giới, tu tâm thìnghiệp quả sẽ chuyển sẽ chuyển không thọ đúng như khigây nhân. Như vậy nếu gây nhân ác mà không biết tu, khôngchuyển nghiệp thì tác nhân nào thọ quả ấy không sai chạy.Nếu gây nhân ác biết tu thân, tu giới là có chuyển nghiệpthọ quả báo nhẹ hơn. Còn gây nhân ác biết tu thân, tu giới,tu tâm gần như chuyển hoàn toàn. Cho nên tu là chuyển đaukhổ được an vui.

Kiểm lại, chúng ta từ nhỏ đếngià, không ai là người hoàn toàn thiện lành, cũng có lúcngười này làm người kia khóc than, cũng có lúc người kialàm người nọ oán hận. Như vậy, là đã tạo nhân xấu.Nếu hiện tại tu mà vẫn trả quả xấu như cũ thì tu cólợi ích gì? Thế nên phải biết, tu là chuyển quả xấu,tuỳ theo sức huân tu nhiều hay ít mà quả tuỳ theo đó chuyểnđổi.

Sau đây, Phật dạy: Có một giachủ nuôi một bầy dê, một hôm có người thường dân tớitrộm dê, bị gia chủ bắt được đánh, đưa ra pháp luậtbỏ tù. Lần khác, kẻ trộm dê là người người của quanlớn sai tới, gia chủ chỉ bực tức nói năng đôi lời chớkhông đối xử thậm tệ như người thường dân trước. Kếtiếp, kẻ trộm dê do lính của vua sai đến, thì gia chủ khôngdám nói nặng nhẹ gì cả mà chỉ van xin năn nỉ đừng bắtdê. Trong ba trường hợp trên chứng minh rằng: Người khôngbiết tu thân, tu giới, tu tâm gây nhân bao nhiêu thì phải trảquả bấy nhiêu. Vì vậy mà nói nhân nào quả nấy, đó làdụ người thường dân trộm dê không thế lực.

Trường hợp người trộm dê làlính của quan thì chỉ bị trách móc nặng nhẹ. Đó là dụcho người biết tu thân, tu giới, tuy có tạo nhân ác nhưngthọ quả báo nhẹ hơn.

Trường hợp người trộm dê làlính của vua, thì không bị đánh đập, không bị nói nặngnhẹ. Đó là dụ cho người tuy có tạo nhân ác nhưng biếttu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp quả được hoá giải.

Như vậy để thấy cùng tạo nhânác, tùy theo khả năng tu tập cao thấp mà thọ quả sai khác.Nếu biết tu thì quả liền chuyển, không cố định như ngườikhông biết tu. Khi biết rõ người có tu thân tu giới tu tâmthì sẽ thoát được những nghiệp quả đã gây trước kia;tuy nói thoát mà không phải hết hoàn toàn. Nghĩa là nắm muốivẫn hòa tan trong hồ nước, song vì nước trong hồ quá nhiềunên không thấy mặn.

Cũng như chú lính của nhà vua trộmdê, tuy chủ dê không đánh đập không nói nặng nhẹ, nhưngtrong lòng chủ nhà không vui, không cảm tình. Đó là nhân quảsai biệt theo khả năng tu tập.

Thế nào là tu thân tu giới tu tâm?

Tu thân là nơi thân này không làmđiều ác, tất cả mọi điều ác dù lớn hay nhỏ đều phảitránh, còn mọi điều thiện phải cố gắng làm, luôn luônnhớ và làm đó là biết tu thân.

Tu giới là Phật tử tại gia, saukhi quy y rồi, Phật dạy phải giữ năm giới:

1/ Không sát sanh: Là không đượcgiết người. Vì ai cũng muốn sống thì mạng sống phải đượctôn trọng, không nên giết mạng sống của người. Nếu giếtmạng sống của người thì bị luật pháp trừng trị. Vìtôn trọng mạng sống của mình nên phải tôn trọng mạngsống của người. Đó là lẽ công bằng, trái với lẽ côngbằng là tội lỗi.

Ngoài ra, đối với những con vậtlớn như trâu bò heo chó tránh được bao nhiêu là tốt bấynhiêu. Chủ yếu là không giết người.

Một là tự tay mình giết. Ví dụmình oán thù ai thì tự mình đến giết người đó chết.

Hai là sai bảo người khác giết,ví dụ mình oán thù người nào, mình không trực tiếp giếtđược bèn xúi bảo hay mướn người khác giết.

Ba là hoan hỷ khi nghe thấy giết.Ví dụ mình oán thù người nào đó tự mình không giết được,khi thấy nghe người đó bị giết, mình vui mừng thích thú.

Như thế là phạm tội sát sanh.Vì tự tay giết là thân tạo nghiệp ác, sai bảo người giếtlà miệng tạo nghiệp ác, nghe thấy người giết sanh tâm vuimừng là ý tạo nghiệp ác, nên Phật cấm không cho Phật tửlàm.

2/ Không được trộm cướp: Phàmcủa cải của người khác, chẳng được không cho mà lấytừ một cây kim, một ngọn cỏ cũng vậy, tất cả các vậtchẳng được không cho mà lấy. Hoặc trộm lấy, hoặc cướpgiựt, hoặc lừa gạt mà lấy, cho đến trốn xâu lậu thuếcũng đều gọi là trộm cắp.

3/ Không tà dâm: Người Phật tửsau khi lập gia đình có đôi bạn rồi mà mình còn đi ngoạitình với người khác là phạm tội tà dâm. Vì đó là duyêncớ làm cho gia đình mất hạnh phúc, làm cho gia đình tan vỡ,là cái nhân gây đau khổ cho mình cho người, vì vậy mà Phậtcấm.

4/ Không nói dối: Nói dối có bốntrường hợp phạm tội.

a) Chuyện có nói không, chuyện khôngnói có, cốt lừa gạt để lấy tiền lấy của người.

b) Nổi giận nói lời hung dữ, thôác mắng chửi người, vu oan người.

c) Dùng lời hoa mỹ văn chương thêudệt để lừa gạt người.

d) Nói đâm thọc làm cho đôi bênbất hòa thù oán nhau.

Đó là những trường hợp nói dốithì phạm tội. Nếu nói dối để cười cho vui, hoặc đểtrấn an người bệnh người khổ, hoặc để cứu mạng ngườithì không phạm.

5/ Không uống rượu: Nói đơn giảnlà rượu, ngoài ra các thứ như á phiện, xì ke, ma túy đềukhông được dùng. Vì nó là cái nhân sanh ra bệnh hoạn, làmchotiêu tán tài sản, mất hết trí tuệ. Nhưng, nếu vì lý dođau bệnh, cần phải uống thuốc rượu để trị bệnh thìđược phép uống.

Phật dạy giữ năm giới là vìlòng từ bi, sợ chúng sanh vi phạm thì bị đau khổ. Nên giữgìn không phạm thì được an vui. Đó là tu giới.

Tu tâm, có nhiều người nói tôilo tu tâm thôi lo đi chùa cũng vậy, lạy Phật để làm gì?Vậy, tu tâm là tu thế nào?

Tâm là chỉ cho mọi ý niệm xấuác như tham, sân, si... Tu tâm là bỏ được lòng tham lam, tínhsân hận, đố kyﬠsi mê... Tham thì ai cũng có, và có nhiềuloại như tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham ăn, thamngủ... ở đậy tôi chỉ đề cập tham ăn và tham ngủ, đượcmọi người coi là nhỏ mọn, song muốn bỏ không phải làdễ. Ăn nếu dở quá thì không vui, nếu không no thì cũng khôngđược; ăn thì muốn cho ngon cho no đủ. Ngủ thì phải ngủcho đủ giấc, nếu bắt dậy sớm thì không vui. Vì vậy, chúngta lúc nào cũng kẹt trong vòng tham muốn, mà đó là cái bệnhchung của mọi người, không ai là không có. Tu là dẹp bỏlòng tham, còn sân và si luôn luôn đi chung, hễ có sân là cósi.

Thuở xưa có một gia đình gồmcó ba người, người con đi làm ngoài đồng, ông nội và cháuở nhà, ông đưa cho cháu hai cái tô và hai đồng bảo:

-Cháu hãy đi mua một đồng tươngvà một đồng chao.

Đứa cháu cầm tô và tiền đi mộtlúc về hỏi:

-Thưa ông nội, đồng nào mua tươngđồng nào mua chao?

Ông rầy cho nó một hồi, rồi bảo:

-Đồng nào mua cũng được.

Nó liền chạy đi, một lúc lâutrở về hỏi:

-Thưa ông nội, hai cái tô cái nàođựng tương cái nào đựng chao?

Ông giận quá tát cho nó mấy táttai, nó khóc lu bù. Ngay khi đó, người con đi cày về, tay cầmcây roi đánh trâu, thấy con mình bị ông già đánh, nó la khócnên nổi giận nói:

-Ông đánh con tôi, tôi đánh conông cho ông biết.

Người con liền cầm roi tự quấtlên mình túi bụi, ông già nóng ruột quá nói:

-Mày đánh con tao, tao treo cổ chamày cho mày biết.

Ông liền làm vòng, đút đầu vôtreo cổ.

Kết luận câu chuyện, quý vị thấygia đình đó si mê ở mức độ nào? Nếu nói ngu thì gia đìnhđó không ai bằng. Đứa cháu đã ngu, người cha còn ngu hơn,đến ông nội lại quá ngu! Ngu là do nổi giận mà ra vậy.Nên có sân là có si, làm mà không biết sai không biết hại.Xét lại xem, chúng ta có làm những chuyện na ná như vậy không?Tưởng chừng như không, nhưng khi có làm mà không hay. Chẳnghạn lúc nào đó, con làm trái ý, cha mẹ nổi giận chửi "Màylà đồ trâu đồ chó..." Nếu có người hỏi "Nó là trâulà chó, vậy cha mẹ nó là gì???". Làm cha mẹ chửi con nhưvậy có khôn không? Thế mà có lắm người chửi như vậy!!!Nên biết, hễ nổi sân là liền ngu, không biết phải quấy.Tưởng nói cho đỡ bực, nhưng không ngờ tự ngầm nhận mìnhlà trâu là chó. Vì con là trâu chó, cha mẹ đương nhiên phảilà trâu chó mới sanh con trâu chó. Hoặc có người khi giậncon thì chửi ông cố nội, ông cố ngoại nó... Ông cố nộiông cố ngoại nó là ai? Là ông nội ông ngoại mình. Vậymà khi giận thì người ta cứ nói cứ làm. Chẳng khác gìngười kia đánh con ông già để cho ổng tức, nhưng tự đánhmình thì mình đau. Rồi ông già treo cổ cha nó, cho nó hoảngsợ, nhưng rồi chính ông chết!

Vì sân si mà chúng ta không nhậnbiết điều phải lẽ trái, cứ làm bậy, nói bậy, khiếncho thiên hạ chê cười. Nên ca dao Việt Nam có câu:

Sân si nghiệp chướng không chừa,

Bo bo mà giữ tương dưa làm gì.

Tu mà không chịu bỏ tham, bỏ sân,bỏ si mà cứ khoe "tôi ăn chay một tháng mười ngày, 15 ngàyv.v..." Ăn chay, ăn tương dưa là để chừa tham sân si. Có chừabỏ được tham sân si thì tâm mới sáng suốt, tâm sáng suốtthì không nói bậy làm bậy, không nói bậy làm bậy thì nghiệpchướng theo đó mà giảm. Nếu không chừa bỏ tham sân si thìnghiệp chướng tội lỗi khó mà hết được.

Tuy nói tu thân, tu tâm, nhưng chủyếu là tu tâm. Nếu tu tâm mà được viên mãn thì mọi nghiệpchướng không còn, mọi họa khổ sẽ hết, không phải trảnặng nề như lúc gây tạo.

Nói nhân nào quả nấy là chưa chínhxác, chưa lột lý nhân quả, vì chỉ đúng một trường hợplà người không biết tu, còn đối với người biết tu thìkhông đúng.

Nếu người tạo nghiệp ác nhiều,vì yếu đuối không cố gắng làm lành, chắc rằng nghiệpác khó chuyển đổi. Ví dụ có nhiều người lỡ nghiện rượuđều được bác sĩ và bạn tốt khuyên nên bỏ rượu, vìuống rượu hại sức khỏe, tinh thần không minh mẫn, tốnkém tiền bạc, vợ con khốn khổ, gia đình không hạnh phúc.Nghe lời khuyên, họ hiểu, thấy rõ uống rượu là tai hại.Nhưng có người không bỏ được, vì tâm hồn họ yếu đuốibạc nhược. Lại có người ý chí mạnh mẽ biết uống rượucó hại dứt khoát bỏ ngay. Vậy, nghiệp cũng có thể chuyểnđược mà cũng có thể chuyển không được, tùy theo ý chímạnh hay yếu của mọi người.

Có nhiều Phật tử lấy làm thắcmắc hoặc nuối tiếc về những người tu xuất. Vì họ chorằng các thầy các cô có rất nhiều duyên phước mới đượcxuất gia tu hành. Tại sao có nhiều người tu mười mấy haimươi năm học hành tương đối cũng thông, bỗng dưng cởiáo hoàn tục. Họ hỏi:

-Thầy tu ở trong đạo an ổn quá,tại sao lại hoàn tục cho phiền lụy?

Các thầy trả lời chung chung:

-Tại nghiệp của tôi nó lôi.

Qúy vị nghĩ sao? Ai tu có nghiệpcũng bị nghiệp lôi hoàn tục hết, hay có người bị lôicó người chuyển nghiệp đổi nghiệp? Nếu ai tu cũng bịnghiệp lôi hoàn tục, thì chắc chắn không có người tu tớinơi tới chốn. Chúng ta sanh ra trong đời này đều có liênhệ với quá khứ, kẻ có nghiệp này người có nghiệp khác...Song, tùy theo ý chí của mỗi người yếu hay mạnh mà chuyểnđược nghiệp hay không. Đừng đổ thừa nghiệp, để rồitu, nếu gặp cảnh nghịch lòng, trái ý liền bỏ đạo vềđời, lại nói do nghiệp lôi. Người như thế là người khôngý chí, không gan dạ, tinh thần cầu tiến quá thấp. Tuy nhiênchúng ta đừng khinh những người tu hoàn tục. Khi Phật còntại thế, Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc chứng quả A La Hán, trênđường đi giáo hóa, bà gặp các cô gái trẻ, bà rủ:

-Các con nên xuất gia đi tu.

Các cô thưa:

-Các con còn nhỏ dại, ham ăn, hamngủ tu không được.

Bà nói:

-Không sao cứ đi tu.

Các cô nói:

-Đi tu không làm tỳ kheo ni, lỡtụi con phạm giới đọa địa ngục thì sao?

-Không sao, lỡ đọa địa ngục,hết quả báo trở lên tu tiếp.

Theo Bà Liên Hoa Sắc thì nếu tuphạm giới bị đọa hết quả báo thì trở lại tu nữa, vìchủng tử tu hành vẫn còn, gặp duyên thì nhớ lại. Nếungười chưa tu lỡ tạo nghiệp ác bị đọa, hết quả báokhông có chủng tử cũ thì biết bao giờ mới tu được. Bâygiờ tuy người tu phạm giới bị đọa có thua kém những ngườitu khác, nhưng với người chưa tu vẫn có phần hơn, vì họcòn chủng tử cũ, đủ duyên họ phát tâm tu trở lại.

Tới đây, tôi xin đi xa một chútlà trình bày lý nhân quả theo tinh thần thiền tông. Trong "ChứngĐạo Ca" của Thiền Sư Huyền Giác có hai câu:

Liễu, tức nghiệp chướng bổnlai không,

Vị liễu, ưng tu hoàn túc trái.

Nếu liễu ngộ thì nghiệp chướngxưa nay là không, còn nếu chưa liễu ngộ thì phải đền nợtrước. Những nhân ác, những nghiệp bất thiện đã gây tạotừ trước, nếu tu hành không liễu ngộ thì phải trả đủ.Còn nếu tu mà liễu ngộ được thì nghiệp chướng cũ theođó mà hóa giải không còn.

Sau có một thiền khách tên HạoNguyệt đến Thiền Sư Trường Sa Cảnh Sầm hỏi rằng:

-Cổ Đức có nói: "Liễu tức nghiệpchướng bổn lai không; vị liễu ưng tu hoàn túc trái". NhưTổ Sư Tử và Tổ Huệ Khả vì sao lại đền nợ trước?

Trường Sa bảo:

-Đại đức chẳng biết bổn laikhông.

Hạo Nguyệt hỏi:

-Thế nào là bổn lai không?

-Ngiệp chướng.

-Thế nào là nghiệp chướng?

-Bổn lai không.

Tại sao nói nghiệp chướng bổnlai không?

Theo Phật giáo thì nghiệp là độnglực chi phối đời sống con người từ đời trước cho tớiđời này và mãi về sau. Nếu con người còn tạo nghiệp thìcòn trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử. Song, dùng trí quansát cho kỹ thì nghiệp không thật. Ví dụ ông A nói lời hungác (khẩu nghiệp) làm cho ông B buồn giận, sau ông A hối hậnăn năn xin lỗi ông B, ông B vui vẻ tha thứ. Khẩu nghiệp áccủa ông A trước làm cho ông B buồn giận sau hối hận xinlỗi thì ông B hết buồn giận. Như vậy, nghiệp ác thậtthì không đổ được, vì nó không thật nên chuyển được.Nghiệp còn là khi tâm chúng ta mê, nếu biết thức tỉnh chuyểnnó thì nó hết, nên nói nghiệp vốn không thật. Tuy khôngthật, nhưng nếu chúng ta mê thì nó kéo đi mãi trong vòng luânhồi sanh tử không dừng.

Đã nói "Nghiệp chướng bổn laikhông" tại sao Tổ Sư Tử bị hành hình, Tổ Huệ Khả chếttrong tù? Trong kinh, Phật nói có nhân là có quả, nhưng quảđến còn tùy theo sức tu cao thấp mà chuyển. Tổ Sư Tử khitới nước Kế Tân giáo hóa, bị ngoại đạo sàm tấu Ngàitruyền bá tà đạo nên vua tức giận đích thân cầm gươmđến chỗ ngài hỏi:

-Thầy được không tướng chưa?

-Đã được.

-Đã được thì còn sợ chết chăng?

-Đã lìa sống chết thì đâu cósợ.

-Chẳng sợ thì có thể cho trẫmcái đầu chăng?

-Thân chẳng phải của ta, huốngnữa là cái đầu.

Vua liền chặt đầu ngài rơi xuốngđất.

Với con mắt phàm phu thì thấy ngàibị trả quả chặt đầu. Nhưng dưới con mắt liễu ngộ củangài thì thấy năm uẩn là không thật, năm uẩn còn mất làtrò chơi, nên Ngài không tiếc cái đầu thì có gì gọi làtrả? Sở dĩ chúng ta thấy ngài trả nghiệp là vì chúng tachưa liễu ngộ còn thấy năm uẩn thật.

Tổ Huệ Khả cũng vậy, khi Ngàingộ đạo ở Tổ Bồ Đề Đạt Ma, sau Ngài truyền tâm ấncho Tổ Tăng Xán. Ngài nói:"Ta còn chút duyên để đi trong nhângian". Rồi Ngài Đến giáo hóa ở một vùng nọ cũng bị ngườisàm tấu Ngài là người truyền đạo không đúng chánh pháp,quan địa phương bắt giam Ngài. Khi bị giam trong khám, Ngàichỉ cười mà không buồn. Ngài nói duyên ta hết ở đây,rồi Ngài tịch ở trong khám.

Đối với chúng ta khi bị nhốttrong khám, thấy đó là một hình phạt rất khổ đau, nhưngđối với Ngài, Ngài không thấy có những sự kiện bực bội,đớn đau, nên Ngài cười. Như vậy, ở tù mà không thấyở tù, chết trong khám mà không thấy chết trong khám, đólà do Ngài liễu đạo. Cái quả mà chúng ta thấy Ngài trả,nhưng đối với Ngài thì không có trả.

Tôi lấy một ví dụ thực tế chodễ hiểu, ông Tần thuở xưa chửi bới làm ông Tấn tứcgiận. Nhưng vì ông Tấn yếu thế nên ôm hận không dám trảlời. Sau ông Tấn có cơ hội trả thù ông Tần, ông Tần đãbiết tu và ngộ đạo, khi bị ông Tấn chửi, ông Tần chìcười mà không giận. Hồi xưa ông chửi thì ông Tấn giận,nay ông Tấn chửi thì ông Tần cười. Vậy ông Tần có trảquả không? Người không tu thấy ông Tần bị chửi, cho làông Tần trả quả. Nhưng với ông Tần là người liễu đạo,nghe tiếng chửi như gió thoảng ngài tai, qua rồi thì mất,nên cười mà không buồn. Vậy, dù cho nghiệp chướng xảyra người đời thấy kinh hoàng khủng khiếp nên thấy có trả,nhưng đối với người liễu đạo thì không có giá trị,nến thấy không có trả.

Thế nên, chư Tổ không thấy trảnghiệp mà người phàm tục thì thấy có trả nghiệp. Đểthấy, chúng ta tu từ thấp là giữ năm giới, thân không làmác là đã chuyển được bao nhiêu thứ khổ đau rồi. Nếutu tiến hơn nữa là bỏ tham lam, sân giận, si mê, tham sânsi càng ít, tâm càng trong sáng, càng thanh thoát, do đó mà đượcan vui. Và nếu tu tới chỗ viên mãn thì mọi nghiệp chướngđối với mình coi như không có; nếu không bị nghiệp chiphối làm cho đau khổ thì không giải thoát là gì?

Hiện nay có một số Phật tử mêtín quan niệm sai lầm, cho rằng tụng kinh Kim Cang, tụng kinhPháp Hoa đổ nghiệp, do tu do tụng kinh nên xẩy ra nhiều tainạn... Vậy nghiệp đó đổ bằng cách nào? Do tụng kinh nghiệpnó tràn ra, hay do xưa kia tạo nhiều nghiệp ác bậy giờ đổbớt đi??? Đã là Phật tử tại sao không tìn hiểu nghiệpđổ bằng cách nào, mà chỉ nghe nói đổ nghiệp là khôngdám tụng kinh nữa. Học đạo như vậy quá sai lầm, tu làđể chuyển nghiệp, giảm nghiệp, chuyển và giảm không cónghĩa là thêm, là đổ ra.

Nếu xưa kia tạo mghiệp ác, đánglý trả bằng sự đánh đập, hoặc trả bằng tai nạn mấtnhân mạng, nhưng nhờ biết tu nên chỉ bị mắng chửi haybị trộm cắp mất tiền của. Khi bị mắng chửi hay mấttiền của nên quán xét: có thể nghiệp chướng của mìnhphải trả bằng tai nạn nặng nề khổ đau hơn nhiều, nhờbiết tụng kinh nên được chuyển nghiệp chỉ bị mắng chửimất tiền của thì quá tốt. Xét như vậy, thì sự tu họcmới tiến bộ, ngược lại, nghe nói đổ nghiệp cứ tin suôngrồi hoảng sợ không tu nữa, là sai lầm.

Lại có nhiều Phật tử quan niệmrằng đi chùa quy y biết tu rồi, thì kể từ đây về sau cuộcsống sẽ bình an không có gì trở ngại. Tu là phải hanh thôngmọi việc, nếu có trục trặc thì thối chí nản lòng khôngtu. Chúng ta nhớ, tu là bỏ ác làm lành, thì ở trong đờinếu có tai nạn xảy ra, biết đó là nghiệp quá khứ cònrơi rớt lại, không sợ hãi, không thối chí, vững lòng tinmà tiến tu không thối chuyển.

Đừng nghĩ tu là mọi nghiệp xấusạch hết, môi việc xảy ra đều như ý.

Chính Đức Phật là người tu hànhcông đức viên mãn, thế mà Ngài còn gặp những cái khó khănnguy hiểm. Có lần Ngài đi giáo hóa ở một làng Bà La Môn,gia đình nọ giỏi về tướng số, sanh được một ngườicon gái rất đẹp. Ông Bà La Môn này muốn gả con gái ôngcho người có đủ ba muơi hai tướng tốt, nhưng tìm mãi chưadược. Bỗng một hôm tình cờ ông gặp Phật đang đi giáohóa, ông mừng quá chạy về nhà kêu vợ ra xem. Bà ra thấyPhật rất hài lòng, đúng là đủ ba mươi hai tướng tốt,bà bèn ngỏ ý gả con gái cho Ngài.

Phật nói "Đối với bà thì congái bà đẹp, song, đối với ta đó là một dãy da hôi thúi,tất cả trong thân nàng đều là bất tịnh". Nghe Phật đáp,bà buồn, trở về nhà thuật lại câu chuyện cho con gái nghe.Cô tự ái nổi giận, ôm lòng thù oán thề rằng sẽ trảthù Phật.

Sau cô được làm hoàng hậu củamột nước, bấy giờ Phật đến giáo hóa ở xứ đó, hoànghậu bèn tập hợp du đãng chận đường Phật để mắng chửi.Tôn Giả A Nan đi theo Phật, thấy du đãng vây mắng thậm tệ,ngài không chịu nổi, mới nói:

-Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn đinước khác giáo hóa.

Phật hỏi:

-Đi đâu?

A Nan thưa:

-Thế Tôn đi nước nào cũng được,vì ở nước này cứ bị người vây chửi, con không cam chịuđược.

Phật hỏi:

-Giả sử đi tới chỗ khác bịngười ta chửi nữa thì A Nan tính sao?

A Nan thưa:

-Nếu tới đó mà bị chửi nữathì chúng ta về nước Xá Vệ, Ma Kiệt Đà... chỗ mà ThếTôn có nhiều đệ tử ở đó giáo hóa.

Phật hỏi:

-Nếu là thầy thuốc giỏi, A Nancó nên đề bảng: "Tôi chỉ trị những bệnh nhẹ, không trịnhững bịnh nặng" chăng?

A Nan thưa:

-Bạch Thế Tôn, không được, thầythuốc giỏi phải trị bệnh nặng mới cứu được nhiềungười.

Phật nói:

-Cũng vậy, dân ở đây họ nhiềumê muội như người bệnh nặng, nên gặp ta họ chửi. Thôi,thong thả, để ta giáo hóa họ, vì họ cần ta.

Du đãng tiếp tục chửi Phật.

A Nan nói:

-Họ cứ chửi Thế Tôn hoài, làmsao giáo hóa được?

-Chừng nào họ không nghe lời nóicủa ta thì ta đi.

Nghe Phật trả lời A Nan như vậy,du đãng nói:

-Thôi, Cù Đàm ở đây giáo hóa,chúng tôi sẽ nghe lời Ngài dạy.

Từ đó Phật nói pháp giáo hóavới họ.

Quý vị thấy, Phật mà còn bịngười chửi mắng huống là chúng ta. Nhưng điều quan trọnglà Tôn Giả A Nan cũng như chúng ta còn tâm phàm, nên nghe chửikhông chịu được. Còn Phật đã giác ngộ tiếng chửi đốivới Ngài như gió thoảng ngoài tai. Ngài không động tâm, nênthương họ là những người mê muội bệnh nặng, nên nóipháp cứu chữa.

Cũng vậy, Chúng ta khi phát tâm tu,nếu gặp người làm khó không nên buồn giận mà phải quánkhởi lòng thương và cảm hóa họ. Nhất là những Phật tửcó gia đình mà biết tu, hoặc bị chồng hay vợ, hay con làmkhó dễ, đó là cơ hội tốt để mình tu, chớ buồn giậnvà đừng cho rằng bạn mình con mình phá rối không cho mìnhtu. Mà nên xét nghĩ thương bạn thương con, vì chưa hiểu đạocòn mờ tối nên cần sự cảm hóa của mình.

Thế nên, tất cả mọi khó khăn,những lời xúc não, nếu chúng ta biết tu, tâm sáng suốt hóagiải tất cả thì được an vui.

Một lần khác Phật đi giáo hóavùng Bà La Môn, các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mìnhtheo Phật nhiều quá, nên ra đón đường Phật chửi. Phậtvẫn thong thả đi, họ đi theo sau chửi. Thấy Phật thản nhiênlàm thinh, họ tức, chận Phật lại hỏi:

-Cù Đàm có điếc không?

-Ta không điếc.

-Ngài không điếc tại sao khôngnghe tôi chửi?

-Này Bà La Môn, nếu nhà ông cóđám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấyquà tặng, họ không nhận thì quà ấy về ai?

-Quà ấy về tôi chứ ai.

-Cũng vậy, ông chửi ta, ta khôngnhận thì thôi.

Người kêu tên Phật chửi mà Ngàikhông nhận. Còn chúng ta, những lời nói bóng nói gió ở đâuđâu cũng lắng nghe để buồn để giận. Như vậy mới thấynhững lời cuồng dại của chúng sanh Ngài không chấp khôngbuồn. Còn chúng ta do si mê, chỉ một lời nói nặng, nói hơn,ôm ấp mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau triền miên. Chúngta tu là tập theo gương của Phật, mọi tật xấu của mìnhphải bỏ, những hành động lời nói không tốt của ngườiđừng quan tâm, như thế mới được an vui.

Trong kinh Phật ví dụ người ácmắng chửi người thiện, người thiện không nhận lời mắngchửi đó. Người ác giống như người ngửa mặt lên trờiphun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuốngmặt người phun. Thế nên, có thọ nhận mới dính mắc khổđau, không thọ nhận thì an vui hạnh phúc. Từ đây về sau,quý vị có ai nghe ai nói gì về mình dù tốt hay xấu, chớnên thọ nhận thì sẽ được an vui. Đa số chúng ta có cáitật nghe người nói không tốt về mình qua miệng người thứhai thứ ba, thì tìm phăng ra manh mối để thọ nhận rồi nổisân si phiền não, đó là kẻ khờ không phải người trí.Tuy có chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết giải khôngthọ nhận đó là tu. Không phải tu là cầu an suông, mà phảicó người thử thách để có dịp coi lại mình đã làm chủđược mình chưa. Nếu còn buồn giận vì một vài lý do bấtnhư ý bên ngoài đó là tu chưa tiến.

Tinh thần nhân quả của đạo Phậtkhông phải gây nhân nào chịu quả ấy trọn vẹn, ngoại trừngười không biết tu thì nhân quả không sai khác. Còn vớingười biết tu thì nhân quả biến chuyển theo công phu tu hànhcao thấp mà có sai khác. Tu là chuyuển nghiệp giảm hết phiềnnão khổ đau để được an vui hạnh phúc, đó là tu đúngtheo lời Phật dạy. Nếu tu sai thì không chuyển được nghiệpnên phiền lụy cứ dai dẳng khổ đau không đứt trừ, lạicòn thối chí tu tập, không được lợi ích gì cả. Tôi mongrằng quý Phật tử sau khi nghe pháp nên nghiệm xét ứng dụngtu hành để trên đường tu mỗi ngày mỗi tiến cho hết khổđược vui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 6094)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê, Ngài giữ trong tim một bộ kinh biểu tượng của việc thấy tất cả mọi thứ như chúng là, Người dạy trong sáu mươi cách, với lòng từ bi yêu thương của một từ thân với đứa con duy nhất, Đến tất cả các tạo vật bị giam trong tù ngục của luân hồi, Bối rối trong bóng tối của si mê, tràn ngập bởi khổ đau của họ.
03/07/2021(Xem: 16755)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3933)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6377)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6557)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 4214)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8604)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5822)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 16042)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 11206)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]