Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01-Tu Phải Là Hiền

27/02/201104:59(Xem: 5988)
01-Tu Phải Là Hiền

TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
HT. Thích Thanh Từ

Tu Phải Là Hiền

Buổi nói chuyện hôm nay tôinhắm vào Quý Phật tử Phước Thái nhiều hơn là Quý Phậttử ở các nơi. Vậy Quý vị hãy lắng nghe cho kỹ. Ở đâytôi không giảng những đề tài cao siêu, mà đặt những câuhỏi rất thực tế, rất thấp, quý vị hãy trả lời đúngnhư chỗ mình biết, để rồi tôi hướng dẫn cho quý vịtu hành.

- Quý vị đi chùa học đạo, cóphải tu theo đạo Phật không?

- Thưa Phải.

- Vậy người tu là hiền hay dữ?

- Dạ hiền.

- Người đi chùa, lậy Phật, ănchay, tụng kinh, nếu có người xúc phạm đến thì nóng nảyla lối. như vậy có hiền không?

- Dạ chưa hiền.

- À, chưa hiền tức là chưa tu.Vậy đi chùa tụng kinh mà chưa hiền chưa gọi là người tu.Người tự nhận mình tu theo đạo Phật mà chưa hiền thìsao?. Phải tu thế nào mới gọi là tu theo đạo Phật. Và làmthế nào để được hiền, quý vị biết không?

- Dạ chưa biết.

- Đây tôi hướng dẫn cho quý vịđể thành người hiền rất thực tế và dễ dàng. Theo tinhthần đạo Phật, tu là tu ở ba nghiệp: Thân nghiệp, khẩunghiệp, và ý nghiệp.

Khi chưa biết tu, Thân có khi làmlành có lúc làm dữ, miệng có khi nói lời thiện có lúc nóilời ác, ý có khi nghĩ tốt có lúc nghĩ xấu.

Khi biết tu thì việc lành nên làm,việc dữ nên tránh. Lời thiện thì nói, lời ác thì chừa.Điều tốt thì nghĩ, điều xấu thì dừng. Người biết tuthân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác, đólà người hiền.

Tu chủ yếu không phải ăn chay nhiều,vậy mà Phật tử cứ đua nhau ăn chay, cho ăn chay nhiều làtu, chứ không biết tu là chừa ba nghiệp ác. Nhân gian có câuca dao để nhạo báng người ăn chay mà không hiền.

Sân si nghiệp chướng không chừaBo bo mà giữ tương dưa làm gì?

Tham sân si là nghiệp chướng củathân miệng và ý thì không chịu chừa bỏ, mà cứ đua nhauăn chay, rồi cho đó là tu, tu như vậy không đúng với chủtrương của đạo Phật. Tu là thân không làm ác, miệng khôngnói ác, ý không nghĩ ác.

Trong gia đình, nếu mọi ngườikhông biết tu thì cứ cãi và chửi bới gây phiền não chonhau. Thậm chí gây cãi không nguôi còn giận thì đánh đập,đánh đập không thỏa mãn cơn giận thì tình nghĩa không còn,mà tình nghĩa đã hết thì ly dị chia tay, gia đình đổ nát.

Nếu mọi người biết tu thì ývừa khởi nghĩ ác, liền biết xấu chế ngự không dám nóilời nặng, không nói nặng thì đâu có cãi, không cãi thìlàm gì có đánh đập, không đánh đập thì đâu có ly dị,gia đình thường an vui hạnh phúc.

Như vậy, nếu người biết tu thìý không bao giờ nghĩ xấu cho ai, tâm không bực bội phiềnnão, lúc nào cũng vui vẻ an ổn. Nếu ý không nghĩ xấu thìmiệng thân đâu có nói, làm hung ác khiến cho người đau khổ.Mà không làm khổ người thì được người thương mến, ngườithương mến thì không hại, nếu có chuyện bất trắc thìđược người giúp đỡ.

Khi đã biết tu thì thân miệng ýlúc nào cũng thiện, ba nghiệp mà thiện thì tự thân đượcan vui, trong gia đình trên thuận dưới hòa, ngoài xã hội khônggây xáo trộn sẽ được trật tự an bình. Như vậy ngườibiết tu, chẳng những chính bản thân mình được lợi ích,mà gia đình và xã hội cũng được lợi ích. Đó là ngườitu đúng theo lời Phật dạy.

Nếu chỉ biết ăn chay, tay lầntràng hạt, mỗi khi có ai xúc phạm đến thì la lối chửirủa không thua ai; Người như thế không hiền, chưa phải làngười tu. Do vậy, nên bị kiêu ngạo: "Ngoài miệng thì nammô, trong bụng thì chứa một bồ dao găm".

Ngoài miệng thì niệm Phật lâmrâm, nhưng trong tâm thì quá hung dữ. Thế nên, cho ăn chay nhiều,niệm Phật nhiều là tu mà không chịu chuyển thân, miệng,ý cho thiện thì làm trò cười cho thiên hạ. Vì vậy, khi nóilời tu, người Phật tử phải nhớ thân miệng ý phải thiện.

Phật dạy, tu một giờ, là đượcan vui hạnh phúc một giờ, tu một ngày là được an vui hạnhphúc một ngày, tu một năm là được an vui hạnh phúc mộtnăm. Nhưng gần đây có một số Phật tử nghĩ rằng ăn chay,đi chùa, làm công quả có phước nên ham đua nhau làm.

Ví dụ, trong gia đình trung bìnhăn chay một tháng bốn ngày, vì nghe nói ăn chay có phướcnhiều được khen, nên người vợ tăng thêm sáu ngày, rồimười ngày... chồng con ăn theo không nổi nên có chuyện xàoxáo trong gia đình. Rồi than trách rằng mình muốn tu muốntiến, mà bị quỉ nó phá nó ngăn không cho tu tiến, Ngườinghĩ nói như vậy có tu không? Tu mà ý khởi nghĩ ác, miệngchửi chồng con là quỉ. Như vậy, chưa phải là người Phậttử chân chính.

Người Phật tử chân chính khôngđặt nặng việc đi chùa thường, tụng kinh giỏi, ăn chaynhiều, mà phải biết tu ba nghiệp thân khẩu ý cho thiện.Tức là chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện, đi chùaniệm Phật ăn chay là phải nhớ từng hành động, từng lờinói, từng ý nghĩ luôn luôn phải thiện. Như vậy, có lúcnào là không tu. Chẳng hạn thân cuốc cỏ, xưa thấy rắnthì lấy cuốc đập chết, nay thấy rắn tránh không đập,đó là chuyển nghiệp thân ác thành thiện. Xưa khi tiếp xúcvới bạn bè họ nói lời hung dữ làm mình tức giận bènnói nặng lời cho bõ ghét, nhưng nay nhớ mình là người tukhông được lớn tiếng gây cãi nên im lặng mà nhẫn nhịn.Đó là chuyển nghiệp khẩu ác thành thiện.

Lúc ngồi một mình vừa khởi nghĩxấu về người liền hổ thẹn dừng không nghĩ nữa. Đólà chuyển nghiệp ý ác thành thiện. Tu như vậy, đâu có đợivô chùa tụng kinh lạy Phật mới tu, mà giờ nào ở đâu tucũng được, thế mới đúng ý nghĩa tu của đạo Phật. Nếuhiểu và tu như vậy, thì lo gì mai kia không được về cõiPhật. Trong kinh có câu:

"Tam nghiệp hằng thanh tịnh ĐồngPhật vãng Tây phương"

Ba nghiệp mà hằng trong sạch thìđồng với Phật về cõi Phật. Nếu không bỏ ba nghiệp ácmà cố niệm Phật nhiều câu Phật A-Di-Dà rước về CựcLạc, cũng không được rước về, vì ba nghiệp còn ác thìvề đó cứ gây cãi đánh đập hoài biến cõi Cực Lạc thànhcõi Ta Bà khổ hay sao ?

Vậy, tu cốt là chuyển ba nghiệpác thành ba nghiệp thiện là bước đầu, tụng kinh niệm Phậtlà bước kế tiếp. Bước đầu là nền tảng mà không thựchiện trước, lại đi bước thứ hai, giống như cất nhà lầumà không xây nền móng, quyết định cái nhà sẽ đổ khôngthành.

Lại cũng có nhiều Phật tử đichùa lâu năm, ăn chay, niệm Phật, Nếu con cháu có làm gìphật ý thì mắng chửi không tiếc lời, khiến cho con cháubuồn không thương mến. Rồi viện cớ là chỉ hiền vớingười ngoài thôi, đối với con cháu trong nhà phải khó phảidữ nó mới sợ. Người Phật tử nói vậy là không đúng.Tu là phải hiền, hiền với tất cả mọi người, từ trongnhà cho đến ngoài xã hội. Giả sử con cháu có làm bậy,làm sai, thì nên ôn tồn nhỏ nhẹ khuyên dạy con cháu. Đừngnên chửi bới la rầy, vì lúc nóng giận không kiểm soát đượcý nghĩ lời nói, sẽ nói bậy, mà nói bậy thì mất uy tínvới con cháu.

Kinh Phật ví dụ một Trưởng giảcó tất cả bốn bà vợ. Người thứ nhất rất trung thànhvới ông, thế mà suốt ngày ông không nghĩ tới. Người vợthứ hai được ông lưu ý chút ít. Người vợ thứ ba đượcông nhắc nhở liền miệng. Người vợ thứ tư thì ông ởđâu bà có mặt ở nơi đó, Không rời một gang tấc. Mộthôm ông đau nặng sắp chết, hỏi cả bốn người vợ:

- Tôi sắp chết, trong bốn bà cóai nguyện chết theo tôi không ?

Vợ thứ tư lên tiếng trước:

- Bình thường ông ở đâu thì cómặt tôi ở đó, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới cửa.

Vợ thứ ba lên tiếng tiếp:

- Bình thường tôi được ông lưuý nhắc nhở liền miệng, bây giờ ông chết tôi xin đưa ôngtới cổng.

Vợ thứ hai nói:

- Bình thường tôi cũng được ôngnhắc nhở, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới mộ.

Vợ thứ nhất nói:

- Bình thường tuy ông không nghĩtới, nhưng bây giờ ông chết, tôi nguyện chết theo ông.

Qúy vị thấy ông Trưởng giả quábất công và bội bạc, người thương mình, trung thành vớimình thì lơ là không nghĩ đến, người thương ít thì luônluôn theo dõi không rời... ông Trưởng giả bất công bộibạc này Phật dụ cho mỗi người chúng ta.

Người vợ thứ tư Phật dụ chotiền bạc, chúng ta ở nhà, hay đi đâu đều có tiền trongtúi không thể thiếu nó. Nhưng khi chúng ta chết thì nó nằmtrong tủ hoặc ở nơi rương thuộc phạm vi trong nhà, vì vậymà nói đưa tới cửa.

Người vợ thứ ba dụ cho của cảisự nghiệp nhà cửa, nó nằm ở trong phạm vi vòng rào nhà,nên nói đưa tới cổng.

Người vợ thứ hai dụ cho côngdanh chức tước khi đưa quan tài người chết tới huyệt thìđọc điếu văn kể công trạng rồi mới hạ huyệt chôn cất,nên nói đưa tới mộ.

Người vợ thứ nhất dụ cho nghiệplành hay nghiệp dữ theo mình như hình với bóng, có mình ởđâu thì có nó ở đó không rời nhau, nên mới tình nguyệnchết theo.

Tác động của thân khẩu ý lặptới lặp lui nhiều lần gọi là nghiệp. Người dậy họchằng ngày thì gọi là nghề giáo hay nghiệp giáo. Người cùnglàm một việc thì gọi là bạn đồng nghiệp. Có người làcó nghiệp. Người nghiệp không rời nhau.

Giả sử như ông thầy giáo đi đườngcó mang theo một số tiền của, bất thần ông bị tai nạn,bao nhiêu tiền ông mang theo bị mất hết. Nhưng nghiệp dạyhọc vẫn còn không mất, về nhà vẫn đến trường dạy họctrò. Như vậy, tiền của và sự sản là cái ngoài mình nênbị mất dễ dàng không thể giữ được mãi mãi. Còn nghiệplà cái không ngoài mình nên chẳng bao giờ mất. Thế mà trongcuộc sống hằng ngày mọi người đều nghĩ làm sao cho cótiền, làm sao cho có của, nếu có tiền có của rồi thì muốncó địa vị danh vọng. Trong ba thứ đó nghĩ tới tiền nhiềunhất, rồi tới của cải danh vọng. Khi chết, thì tiền củatừ giã mình trước nhất, tức là khi chết nó ở lại chứkhông theo mình.

Trong đời này không ai là (người)không chết, hoặc chết sớm hoặc chết muộn, khi chết thìkhông ai đem được tiền của theo, chỉ có nghiệp lành haynghiệp dữ theo mà thôi. Thế nên, nếu là người Phật tửkhôn ngoan sáng suốt, dù có làm ra nhiều tiền của mà làmác thì nhất định không làm, vì khi chết không cứu đượctội khổ mà phải để lại tất cả, chỉ có một mình mìnhchịu quả báo khổ đau. Nghĩ và nói ác mà đem lại lợi lộccho mình thì cũng không nói.

Như thế không bị tiền tài saisử tạo nghiệp ác. Ngày nay không gây tạo tội lỗi, khôngbị người chê trách, mai kia chết đi cũng nhẹ nhàng thảnhthơi. Ca dao có câu:

Bởi chừng kiếp trước khéo tuNgày nay con cái võng dù nghênh ngang

Do kiếp trước khéo tu nên ngàynay con cháu mới sang trọng, Nếu hiện tại không chịu tu thìcon cháu về sau khổ. Để thấy chúng ta tu là tạo cho cuộcsống hiện tại an vui, ngày mai lại càng an vui tốt đẹp hơn.Vậy, biết tu là thường nhớ tới nghiệp, để tránh nghiệpác làm nghiệp lành, hơn là nhớ tới tiền của vật chất.Tuy trong cuộc sống, chúng ta phải làm ra tiền mới sống được,nhưng phải làm cho công bằng lương thiện, mình an vui, ngườikhông khổ, hiện tại mình hạnh phúc, mai sau cũng an lành.Vậy, tu không phải là mong cầu cái gì cao siêu huyền bí,mà ngay trong thực tế thường làm lợi mình lợi người mộtcách cụ thể, không mơ hồ viễn vông.

Đạo Phật chủ trương tu là đểgiải thoát, song nói giải thoát có vẻ xa vời quá! Nhưng nếuthực tế thân chúng ta không làm ác là giải thoát đượccái khổ nghiệp ác của thân. Vì nếu cướp của giết ngườithì bị cái khổ đánh đập tù tội, bây giờ không tạo nghiệpác ấy thì thân được lành mạnh tự do, đó là giải thoátnghiệp ác của thân.

Nếu miệng không nói lời hung dữác độc thì giải thoát được nghiệp ác của miệng, ý khôngnghĩ ác thì giải thoát được tâm niệm xấu xa buồn ghétngười khác. Tuy không hoàn toàn giải thoát nhưng có giảithoát từng phần; tu ít thì giải thoát ít, tu nhiều thì giảithoát nhiều, có tu là có bớt khổ. Chẳng những bớt khổtrong đời này mà trong đời sau còn được an vui nữa. Nênngười biết tu không sợ chết. Vì ai cũng phải chết, vàbiết rằng mình không tạo nghiệp ác thường tạo nghiệplành, sau khi chết sẽ an vui chớ không khổ. Tuy nhiên, đừngvì muốn giải thoát mà liều chết sớm để được khỏeđược sướng thì không đúng với tinh thần giải thoát củađạo Phật.

Thông thường thì người đời thamsống sợ chết, nên nghe nói chết thì rất sợ. Nhưng ngườibiết tu thì ngay cuộc sống hiện tại lúc nào cũng an vui,khi chết đến thì bình thản không loạn động, nên khôngmuốn chết sớm mà cũng không sợ chết. Vì vậy mà Phậttổ mới dạy chúng ta tu, tu là nguồn cội hạnh phúc, hếtphiền não hết khổ đau.

Kể từ ngày nay quý Phật tử ởgần thiền viện, mỗi tháng hai lần vào ngày rằm và ba mươinên đi chùa sám hối và nghe quý thày giảng để biết phươnghướng mà tu tập. Nghe một lần tuy biết đó, nhưng vì cáibệnh chúng sanh hay quên, nên mỗi tháng phải đi hai lần, nhờcác thầy nhắc nhở, luôn ghi nhớ mới tinh tấn mà tu hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/07/2015(Xem: 20787)
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là
01/07/2015(Xem: 11805)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
29/06/2015(Xem: 9678)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8281)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12304)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 31712)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 13251)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
23/06/2015(Xem: 12495)
Hơn hai mươi năm trước, khi đọc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nói về tiếng chuông Chùa Hàn San ở Tô Châu bên Trung Hoa, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao thơ Đường có không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác, vậy mà bài thơ chỉ bốn câu này lại gây ra bao nhiêu cuộc bút đàm tốn bao nhiêu giấy mực. Hay tại vì ngôi Chùa ở bến Cô Tô này đã quá nổi tiếng chăng? Nhưng đã ngờ thì phải cố mày mò tìm cho ra lẽ. Tôi tìm đọc thêm những câu chuyện chung quanh quả Đại hồng chung và tiếng chuông Hàn San. Nhiều huyền thoại đọc thật thú vị nhưng sao thấy nó cứ thực thực hư hư! Trong số ấy có một câu chuyện nói rằng, tiếng chuông chùa Hàn San có thể ngân vang rất xa, xa
21/06/2015(Xem: 7623)
Văn phòng Chính phủ Tây Tạng lưu vong, Dharamsala đưa tin – Hội nghị Tôn giáo lần thứ 12 của bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng đã diễn ra vào các ngày 18-20/06/2015 tại Dharamsala miền bắc của bang Himachal Pradesh, Tây Bắc của Ấn Độ.
21/06/2015(Xem: 9959)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc. Một niệm tức là một móng tâm, một ý nghĩ khởi sinh từ tâm. Điều này cho thấy hai ý nghĩa: làn sóng vi ba khởi sinh từ tâm dù vô hình vô tướng vẫn có thể lan xa khắp ba cõi, và qua đó, ảnh hưởng của một niệm có thể bao trùm cả cõi không gian rộng lớn vô cùng. Quan điểm này có thể nhìn thấy rõ nhất trong thế giới truyền thông ngày nay. Chỉ trong chớp mắt, trong một cái nhấp tay hay cái bấm tay trên máy điện toán hay điện thoại cầm tay thì một bản tin, một sự kiện, một hình ảnh có thể đi khắp thế giới và ảnh hưởng đến hàng tỉ người trong “ngôi làng toàn cầu.”[1]
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]