Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Đạo đức là đòi hỏi tất yếu của xã hội loài người

25/02/201111:36(Xem: 5555)
4. Đạo đức là đòi hỏi tất yếu của xã hội loài người

CHÌA KHÓA SỐNG HƯỚNG THIỆN
Lại Thế Luyện

Đạo đức là đòi hỏi tất yếu của xã hội loài người

Xã hội loài người sở dĩ có thể tồn tại và phát triển được là nhờ có quá trình không ngừng truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội - lịch sử. Trong những kinh nghiệm xã hội - lịch sử đó, các chuẩn mực về đạo đức nói riêng đã không ngừng được bổ sung, cập nhật, hoàn thiện cho phù hợp với các điều kiện thay đổi thực tế của xã hội, của từng thời đại.

Xã hội loài người dù ở bất cứ thời đại lịch sử nào cũng luôn cần đến các chuẩn mực đạo đức phù hợp để làm khuôn mẫu cho cách ứng xử, cách sống giữa người với người trong các mối quan hệ xã hội. Những chuẩn mực đạo đức được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được mọi người trong xã hội thừa nhận và tự giác thực hiện.

Trong xã hội nguyên thủy, chuẩn mực đạo đức của con người chỉ dựa trên nguyên tắc ăn đồng chia đều. Mọi của cải vật chất kiếm được đều chia thành những phần bằng nhau cho tất cả mọi thành viên trong thị tộc.

Sau những năm tháng dài trôi qua, cuộc sống của xã hội loài người càng lúc càng trở nên phức tạp hơn trên nhiều lĩnh vực và cần đến những chuẩn mực đạo đức phù hợp hơn để giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh giữa người với người trong đời sống xã hội. Cuộc sống của loài người vào thời xã hội nguyên thủy chắc hẳn chưa hề có những chuẩn mực đạo đức liên quan đến việc bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống như chúng ta ngày nay. Bởi lẽ, khi đó dân số thế giới còn ít, diện tích các vùng đất đai canh tác còn nhiều. Loài người lúc bấy giờ chưa có sản xuất công nghiệp, nên mức độ ô nhiễm do chính mình gây ra chưa đến mức đáng báo động cho sự hủy hoại nghiêm trọng về môi trường sống như ngày nay. Và do vậy, ở thời điểm đó, loài người chưa thể nào nghĩ đến những chuẩn mực đạo đức liên quan đến lĩnh vực bảo vệ môi trường. Cho nên, chắc chắn loài người lúc ấy chưa có sự nhìn nhận, đánh giá hành vi nào là tốt hay xấu đối với môi trường như chúng ta ngày nay.

Tuy nhiên, theo đà tiến lên của xã hội, đi cùng với sự phát triển của sản xuất công nghiệp, thì mức độ khai thác tài nguyên, mức độ tiêu hao năng lượng và mức độ ô nhiễm do sản xuất công nghiệp tạo ra, gây ảnh hưởng đến môi trường sống chung của cả nhân loại cũng ngày càng tăng lên. Nếu chúng ta không biết cách bảo vệ môi trường, nhất là không có ý thức tự giáo dục bản thân, thể hiện qua các hành vi tôn trọng và bảo vệ môi trường sống mỗi ngày, thì chẳng những thực trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nặng nề sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của chúng ta mà còn ảnh hưởng đến cả các thế hệ con cháu chúng ta. Trước viễn cảnh đó, việc đưa ra những chuẩn mực đạo đức nhằm bảo vệ môi trường rõ ràng là điều vô cùng cần thiết, nhằm bảo vệ cuộc sống tốt đẹp cho nhân loại trên cả hành tinh này...

***

Có người viện lý do rằng, chính vì các chuẩn mực đạo đức không phải là bất biến mà có sự thay đổi theo thời gian, có sự khác nhau giữa phong tục của từng dân tộc và cách sống của người dân ở nhiều quốc gia khác nhau trên trái đất, nên các chuẩn mực đạo đức chỉ mang một giá trị tương đối và con người ta không nhất thiết phải tự giác tuân theo mà có thể tùy ý tuân theo hoặc không! Tuy nhiên, tính không bất biến của các chuẩn mực đạo đức hoàn toàn không phải là lý do để chúng ta hoài nghi về tính đúng đắn và giá trị của các chuẩn mực đạo đức. Chúng ta sẽ phải giải quyết vấn đề gây băn khoăn này như thế nào đây?

Trước hết, chúng ta phải thừa nhận rằng, mọi cái được xem là đúng đắn, phù hợp trên cuộc đời này đều chỉ mang tính chất tương đối. Một điều gì đó được xem là đúng trong những điều kiện, hoàn cảnh này, lại không được xem là đúng trong điều kiện khác, hoàn cảnh khác. Cũng tương tự như vậy, một điều được xem là chuẩn mực đạo đức ở dân tộc này, đất nước này, thời đại này... chưa hẳn đã được xem là chuẩn mực đạo đức ở dân tộc khác, đất nước khác, thời đại khác... Như vậy cũng không phải là điều quá khó hiểu!

Thiết tưởng ở đây chúng ta cần phân biệt sự khác nhau giữa chuẩn mực và giá trị. Chuẩn mực đạo đức ở mọi nơi và mọi thời có thể có những sự khác biệt nhất định nào đó, nhưng giá trị chung của tất cả những chuẩn mực đạo đức đó là đều hướng con người đến cái Thiện. Đó là lý do lý giải cho chúng ta hiểu tại sao các chuẩn mực đạo đức có sự thay đổi qua các thời đại lịch sử. Cho dù những chuẩn mực đạo đức cụ thể ở từng thời đại lịch sử có thể có những sự sửa đổi, bổ sung, có những khác biệt không tránh khỏi, nhưng giữa các thời đại lịch sử khác nhau đều có những điểm nhận thức tương đồng về cái Thiện.

Trình độ nhận thức hạn hẹp của mỗi cá nhân chúng ta có thể sai lầm, nhưng cuộc sống thì vốn dĩ không sai lầm. Cuộc sống luôn có những quy luật của nó. Cuộc sống ngày càng trở nên phong phú, phức tạp hơn, chính vì vậy mà cuộc sống cũng đòi hỏi nơi bản thân mỗi chúng ta những nỗ lực hoàn thiện bản thân ngày càng cao hơn, với nhiều chuẩn mực đạo đức hơn. Những chuẩn mực đạo đức được bắt rễ từ những đòi hỏi của thực tế cuộc sống cùng khát vọng hướng thiện của con người. Những chuẩn mực đạo đức định hướng cho con người có cách lựa chọn và hành động trong từng trường hợp cụ thể.

Chính nhờ có những chuẩn mực đạo đức mà mỗi người có cơ sở để điều chỉnh nhận thức và hành vi của mình, nhằm đáp ứng yêu cầu chung ngày càng cao của nền đạo đức xã hội. Nếu nhân loại ngày càng leo lên những bậc thang cao hơn của văn minh, thì một đòi hỏi tất yếu là các chuẩn mực đạo đức cũng sẽ ngày càng phải hoàn thiện hơn, sao cho tương xứng với những bước tiến đó của nhân loại.

Đó là chưa nói, qua thời gian cùng với đà phát triển của xã hội, khi trình độ giáo dục được nâng lên thì sự nhận thức của con người về các chuẩn mực đạo đức cũng ngày càng được nâng cao thêm. Theo đó, những gì giúp cho con người thăng tiến về tinh thần, những gì đóng góp tích cực vào sự phát triển của xã hội, những gì phù hợp với xu thế phát triển đi lên của cuộc sống là Thiện. Trái lại, những gì làm hủy hoại con người, đẩy con người tụt lùi xuống hàng thú vật, những gì gây nên hậu quả tiêu cực, trái với xu thế phát triển đi lên của cuộc sống là Ác.

Cho nên, có thể khẳng định, tiêu chuẩn để phân biệt như thế nào là Thiện hay Ác là ở sự phù hợp hay không phù hợp với sự thăng tiến phẩm giá con người, với tiến bộ xã hội, với xu thế vươn lên của cuộc sống nhân loại. Nói tóm lại, thiện là tất cả những gì tốt đẹp, mang lại cho từng cá nhân và cả xã hội một cuộc sống hạnh phúc hơn, phát triển hài hòa hơn.

Như vậy, cùng với tiến trình lịch sử của mình, loài người đã không ngừng đúc kết, bổ sung những chuẩn mực đạo đức, xem đó là những chân lý đúng đắn, phù hợp và không ngừng nỗ lực thực hiện nó. Và xã hội dù ở thời đại nào cũng luôn cần đến các chuẩn mực đạo đức để có thể duy trì sự tồn tại và phát triển. Đây là một thực tế khách quan mà không ai có thể bác bỏ được.

Dù các chuẩn mực đạo đức có được bổ sung, cập nhật, thay đổi cho phù hợp với những thay đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể đi chăng nữa, thì có một sự thật khách quan mà chúng ta phải nhìn nhận là các chuẩn mực đạo đức ấy bao giờ cũng thể hiện xu hướng ngày càng tiến bộ hơn và luôn gắn liền với việc sáng tạo thêm các giá trị tốt đẹp, cao cả hơn cho nhân loại. Nói cách khác, những chuẩn mực đạo đức đó chính là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp của nền đạo đức nhân loại.

Cùng với những tiến bộ của nền văn minh vật chất, loài người đã không ngừng sáng tạo nên những giá trị đạo đức cao cả. Chính những giá trị đạo đức ấy đã góp phần tích cực vào sự phát triển hài hòa của xã hội và sự tiến bộ của nhân loại.

Ngày nay, chúng ta thấy rằng, hầu hết các hệ thống luân lý lớn nhất của nhân loại đều gắn liền với những tôn giáo lớn. Chúng ta không thể phủ nhận lý tưởng cao cả và giá trị thiêng liêng của các tôn giáo chân chính trong việc hướng con người đến cái Thiện. Thậm chí, ngày nay các tôn giáo còn đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc khuyến khích và hướng con người đến cái Thiện, thực hành điều Thiện... Tuy nhiên, nếu xét về mặt lịch sử, thì ngay cả khi chưa có sự xuất hiện của các tôn giáo lớn, loài người cũng đã biết hướng đến các giá trị đạo đức từ rất sớm, bởi vì đạo đức là một đòi hỏi tất yếu của xã hội loài người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/11/2014(Xem: 16342)
Tốt nghiệp đại học, đang làm giám đốc điều hành cho một công ty chuyên về máy tính với tiền lương lên đến vài trăm ngàn đô la một năm, thế nhưng, James Christopher, một thanh niên Pháp vẫn quyết định bỏ việc sang Việt Nam đi tu.
09/11/2014(Xem: 9934)
Trước hết con kính thăm sức khỏe SP. Cầu nguyện chư Phật mười phương hộ trì cho SP luôn thân tâm an lạc, tật bệnh tiêu trừ để tiếp tục dẫn dắt hàng đệ tử chúng con tinh tấn trên con đường tu tập giải thoát. Theo hướng dẫn của SP, con đã làm lễ an vị Phật tại gia ở vùng Trung-Đông, nơi thánh địa của Hồi giáo. Buổi lễ bắt đầu bằng tụng kinh Chú Lăng Nghiêm, và sau đó là kinh Phổ Môn. Điều kỳ diệu, và đây là lần thứ 2 trong đời mà con chứng kiến, sau khi tụng kinh xong cây nhang đã cháy hết rồi mà tàn nhang còn nguyên không bị rớt xuống.
09/11/2014(Xem: 8055)
Giáo sư Tiến sĩ Genshitsu Sen, pháp danh Hanso Sōshitsu, sinh vào ngày 19 tháng 4 năm 1923, tại Kyoto, Nhật Bản. Giáo sư Genshitsu Sen, một kỳ lão Cựu phi công cảm tử ở tuổi thượng thọ 91 xuân, cựu Trưởng môn Phái trà đạo Urasenke đời thứ 15, sau khi thoát khỏi cái chết thời đệ nhị thế chiến, Giáo sư đó đây ngao du sơn thủy khắp thế giới và đáp ứng nhu cầu các nhà lãnh đạo thế giới, nhằm thúc đẩy hòa bình thông qua “Con đường Trà đạo”. Là con trai lớn và là đệ tử chân truyền của Giáo sư Sekisō Sōshitsu (1893-1964) cựu Trưởng môn Phái trà đạo Urasenke đời thứ 14.
08/11/2014(Xem: 17045)
Trong những pháp môn Phật dạy, tôi cả đời chuyên tâm nơi pháp môn Trì danh niệm Phật. Pháp tu niệm Phật có nhiều, trì niệm danh hiệu Phật là một trong những pháp niệm Phật. Đây là pháp môn dễ tu, dễ thực hành nhất, dễ thành tựu. Về chỗ thành tựu cũng như chỗ đạt được rất rõ ràng từng bước, từng nấc tiến, có thể diễn nói, có thể khắc nghĩa.
04/11/2014(Xem: 7138)
Trong đời sống chúng ta thấy một số người có những quan niệm rất ngộ nghĩnh, hay kỳ quặc. Nhiều người trong họ là những người có ăn học, trí thức nhưng họ lại tin vào những điều huyền hoặc, không tưởng. Như có người tin rằng các loài khủng long bị diệt chủng là do các nhà khoa học chế tạo ra, chứ không có thật.
02/11/2014(Xem: 6370)
Đêm hôm đó là một đêm trời mưa. Mưa dai ẳng như tình quê xứ Huế, nhưng không phải Huế. Mưa đang rơi trong trời đêm Thụy Sĩ. Càng về khuya, mưa rơi càng nặng hạt. Vạn vật im lìm đứng lặng trong đêm. Thời gian nhẹ trôi. Không gian yên vắng. Tất cả đang chìm vào tĩnh mịch giữa đêm khuya. Mọi nhà hàng xóm đều tắt đèn yên nghỉ. Không còn một tiếng động dù nhỏ nào, ngoài tiếng mưa rơi rả rích lẫn với tiếng tâm tình rù rì của anh em Gia Đình Phật Tử Trí Thủ chúng tôi ngồi quây quần bên nhau trên căn gác xếp nhà anh Khá.
31/10/2014(Xem: 6834)
Sáng nào tôi cũng đi thiền nhặt rác 2 - 3 vòng quanh công viên Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy. Vừa thong thả bước những bước thảnh thơi, không vội vàng, không suy tư vừa nhặt rác, nếu thấy có. Chân nhẹ bước, tay lượm rác, tay cầm rác, mũi hít thở không khí trong lành buổi ban mai. Hà Nội mùa thu đẹp lắm. Càng ngày tôi càng yêu mùa thu Hà Nội. Mùi hoa sữa vẫn thơm đầu ngày mới. Ánh mặt trời dần rạng tỏ sớm mai. Tôi mê ngắm mặt trời mọc và lặn từ bao giờ chẳng biết. Dù ở đâu cũng thấy bình minh và hoàng hôn đẹp vô cùng. Bagan hay Aytthaya. Siem Riep hay Ngũ Hành Sơn. Mandalay hay Chieng Mai. Hồ Tây hay Bồ Đề Đạo Tràng. Bà Nà hay Lâm Tỳ Ni. Đẹp vô cùng và thấy tâm an lạc và thảnh thơi đến khó tả.
31/10/2014(Xem: 7964)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 7715)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7153)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]