Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Mùa hè xanh của con

24/02/201109:04(Xem: 4894)
17. Mùa hè xanh của con

VIẾT CHO CON GÁI
Lại Thế Luyện - Kim Phụng

Mùa hè xanh của con

Ngày ... tháng ... năm ...
Con gái yêu của cha!
Cha đang lật đi lật lại những tấm ảnh cùng lá thư con gửi về từ nơi xa mà lòng bồi hồi xúc động. Đó là những tấm ảnh chỉ mới chụp cách đây khoảng hơn một tuần, trong thời gian con dạy học và làm công tác xã hội nơi vùng đất gần như tận cùng của ổ quốc, trong chiến dịch tình nguyện Mùa hè anh.
Cha hy vọng, qua chuyến đi này con sẽ hiểu hơn về những trải nghiệm cuộc sống trước đây của cha. Trước đây, cha đã có nhiều gắn bó với vùng đất xa xôi này. Bởi vì, lúc mới vào nghề dạy học, cũng vào dịp hè, cha từng có dịp đặt chân đến nơi đó.
Trong ký ức của cha, đó là vùng đất mà rất nhiều người chỉ vừa nghe nói đến đã ngại ngần, vì những khó khăn, thiếu thốn trăm bề. Trước khi đặt chân lên vùng đất này, cha đã từng nghe những câu chuyện kể về cuộc sống khó khăn ở nơi này như thế nào. Nhưng hồi đó, với lòng hăng hái của tuổi trẻ, cha nghĩ dù cuộc sống có khó khăn đến đâu thì mình cũng có thể học được một điều gì đó. Bạn bè có nhiều người hỏi cha: "Rồi cậu sẽ xoay sở ra sao khi sống ở nơi khắc đó?" Cha chẳng cần quan tâm đến những câu hỏi đó. Cha tự nhủ, mình cứ mạnh dạn đi đến nơi cái đã, mọi chuyện khó khăn tới đâu sẽ xoay sở tới đó!
Thế rồi cha lặng lẽ từ biệt gia đình và bạn bè, rồi khăn gói lên đường. Cho đến bây giờ, ký ức về chuyến đi vẫn hiện ra trong cha rõ mồn một. Chuyến xe chở cha đi ra khỏi thành phố, những toà cao ốc xa dần phía sau lưng, chẳng mấy chốc, xe đã lăn bánh qua những vùng đất của miền quê. Nhìn ra ngoài cửa sổ xe, cha có thể thấy cây cối xanh tươi hai bên đường đi, không khí bỗng trở nên mát rượi, thật dễ chịu.
Xe dừng ở bến. Từ bến xe này, cha còn phải đi xuồng thêm mấy chục cây số nữa. Từ trên xuồng, nhìn ra hai bên bờ sông, lần đầu tiên cha được nhìn thấy những rặng dừa xanh ngút ngàn ha tự nhủ, ngôi trường của mình cũng sẽ ẩn khuất giữa những rừng dừa như thế này đây.
Cuối cùng, cha cũng đặt chân đến được mảnh đất mình muốn đến. Người chèo xuồng chỉ cho cha đường đi. Thời tiết đang vào mùa mưa, những hạt mưa bụi thổi lất phất trên mặt. Cha còn phải đi bộ thêm một quãng đường nữa. Cha cảm thấy thật bất tiện khi mình cứ phải đi bộ giữa ngút ngàn cây cối như thế này với chiếc áo mỏng manh, thời tiết lạnh lẽo và đôi giày da màu đen của cha đã ướt sũng. Nhưng may mắn thay, cha lại leo lên được một chiếc xe tải nhỏ chở nông sản, ngồi cùng với mấy thanh niên khác, đi nhờ vào làng. Lúc cha đến được ngôi làng thì trời đã xế chiều. Cha hỏi thăm một anh thanh niên đang đi ngược chiều về phía mình, hy vọng anh ta chỉ cho cha tìm ra địa chỉ của ngôi trường.
"Ngôi trường ấy à? Ôi! Tệ lắm!" – Anh ta đáp. "Tôi đã cố gắng dạy ở đây mấy tháng rồi và đang chuẩn bị bỏ về thành phố đây!" Mặc dù ngoài miệng thì nói như thế, nhưng anh ta vẫn tốt bụng mang giúp cha hành lý.
Cha đến nơi. Ngôi trường chỉ có sáu phòng học và một khu nhà dành cho giáo viên. Quả thực, đây là một ngôi trường quá nhỏ bé. Cha đến trình diện hiệu trưởng. Thầy hiệu trưởng dẫn cha xuống giới thiệu với lớp: "Đây là thầy giáo mới của lớp các em!" Các em tròn xoe mắt nhìn cha, rồi bất chợt các em nhao nhao, reo lên: "Thầy giáo mới, chúng mày ơi!"
Thầy hiệu trưởng nói, đã mấy tháng rồi, lớp các em không có giáo viên. Và sự xuất hiện của cha chắc hẳn phải là một niềm hạnh phúc thật sự đối với các em, nên các em mới reo hò một cách vui sướng như vậy! Cha cảm thấy mình đã bắt đầu biết thấu hiểu những nỗi khó khăn của hoàn cảnh học sinh, cùng khát vọng học tập qua từng ánh mắt hồn nhiên của các em đang nhìn cha.
Chắc con không thể hình dung được học sinh của cha hồi đó có những em tóc dài lâu ngày chưa được hớt, áo quần bị rách tà, đứt nút nhưng chẳng có ai đơm lại, có những em đi đôi chân trần đến lớp mà có lẽ quanh năm cũng chẳng hề có khái niệm gì về đôi dép.
Đến lúc cha được nhận phòng, phòng của cha ở chỉ có một cái giường cũ và một cái bàn gỗ rất dài. Nơi này hoàn toàn không có điện, và dĩ nhiên, không thể có truyền hình, cũng chẳng có lấy một tờ báo nào. Tối hôm đầu tiên, cha không phải nấu cơm mà thầy hiệu trưởng nấu cơm cho cha ăn luôn. Các giáo viên ở cùng nhà tập thể cũng ăn cơm mừng sự có mặt của cha. Mọi người chỉ có một ít gạo, một ít nấm, mấy con cá và mấy quả trứng cho bữa tối.
Ăn cơm và trò chuyện với mọi người xong, cha mệt mỏi về phòng và ngủ thiếp đi... Đêm yên tĩnh và tuyệt đẹp. Lần đầu tiên cha được nghe tiếng dế gáy rả rích suốt đêm.
°°°
Cha đã sống và dạy học suốt hơn ba năm ở mảnh đất nơi tận cùng tổ quốc. Suốt những năm dài đó, điều quý giá nhất mà cha đã học được chính là lối sống giản dị. Cha chỉ được ăn những gì mà những người dân chất phác, hiền lành đem đến cho cha mỗi ngày. Cha luôn tự tay mình nấu ăn và giặt quần áo. Hơn thế nữa, cha còn học được cách sống khiêm nhường và biết yêu thương, bởi mỗi khi gặp khó khăn nào đó, cha luôn đón nhận được sự giúp đỡ tận tình của những bậc cha mẹ học sinh hiền lành, lương thiện quanh cha.
Chưa hết, những ngày sống ở đây cha đã học bơi lội, học đánh cá, nuôi gà và đủ thứ linh tinh khác... Vốn sống thực tế và sức khoẻ của cha cũng tăng lên rất nhiều. Bây giờ cha có thể đi đầu trần trong mưa mà chẳng hề biết đến ốm đau hay bệnh tật là gì. Và nhất là, cha đã hiểu được giá trị của lao động và lòng yêu cuộc sống là như thế nào. Con biết không? Cha đã cảm động biết bao khi nhìn thấy những người nông dân quanh cha vất vả đi làm về với tấm lưng ướt đẫm mồ hôi, nhưng họ vẫn luôn nở nụ cười hạnh phúc với cha, với các em học sinh. Nhiều người vui vẻ tình nguyện chèo xuồng chở các em học sinh qua sông, đưa đón các em đi học mà chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện tính toán tiền công.
°°°
Sau này, khi trở về dạy học ở thành phố, cha vẫn nhớ làng quê ấy da diết. Gần bốn năm gắn bó là cả một khoảng thời gian bất tận với biết bao kỷ niệm tươi đẹp. Cha chẳng bao giờ ân hận khi mình đã từng quyết định về dạy học ở miền quê.
Với người giáo viên, ai chưa từng được đi dạy học ở miền quê là một thiếu sót đáng tiếc. Vì chỉ có những nơi ấy mới thực sự là những nơi cần đến mình nhiều nhất.
Và khi sống thầm lặng, dấn thân ở những nơi ấy, chúng ta tích luỹ được biết bao kinh nghiệm sống bổ ích. Những dịp được đem kiến thức của mình đến với các tỉnh xa xôi sẽ mãi là những ký ức tươi đẹp cho cả đời người gắn bó với nghề dạy học...
Sau này, liệu con có chọn nghề dạy học hay không, cha chưa biết? Vì thế hệ của các con có rất nhiều triển vọng nghề nghiệp và cơ hội để lựa chọn ở phía trước. Nhưng cha hy vọng, mùa hè xanh năm nay của con cũng sẽ đọng lại trong con nhiều ý nghĩa như thế!

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5382)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4394)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5259)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5491)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8601)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6463)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6203)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4516)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9515)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5969)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]