Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Nhập dòng giải thoát

07/02/201109:32(Xem: 10896)
08. Nhập dòng giải thoát

THƯƠNGYÊU LÀ THÔNG CẢM
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549
-08-

Nhậpdòng giải thoát

Trongkinh điển thường đề cập đến bốn quả vị mà ngườicon Phật phải nhắm đến trên đường giải thoát, đưa đếnNiết Bàn. Các quả vị nầy được xem như là các dấu mốc- hoặc các chặng đường - trên hành trình thanh lọc tâm ý,tiêu diệt các ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm, thường đượcgọi là mười kiết sử hay thằng thúc (samyojana), tróibuộc chúng sinh vào vòng luân hồi.

Bốnquả vị đó là:

-Dự lưu (Sotāpanna, Tu-đà-hoàn),
-Nhất lai (Sakadāgāmi, Tư-đà-hàm),
-Bất lai (Anāgāmi, A-na-hàm),
-A-la-hán (Arahat, Ứng cúng).
Mườikiết sử là:
-thân kiến (sakkāya-ditthi),
-hoài nghi (vicikicchā),
-giới cấm thủ (silabata-parāmāsa)
-tham đắm vào cõi dục (kāma-rāga)
-sân hận (vyāpāda),
-tham đắm vào cõi sắc (rūpa-rāga),
-tham đắm vào cõi vô sắc (arūpa-rāga),
-mạn (māna),
-trạo cử vi tế (uddhacca),
-si vi tế (avijjā).
Trongnhiều bài kinh, Đức Phật thường tóm tắt về bốn quảthánh đó như sau:

"...Có những Tỳ-khưu là những vị A-la-hán, các lậu hoặc đãđoạn trừ, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm,gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữukiết sử đã được đoạn tận, được giải thoát nhờ chánhtrí.

Cónhững Tỳ-khưu là những vị Bất lai, đã đoạn trừ nămhạ phần kiết sử, được hóa sanh, ở đấy được nhậpNiết-bàn, không còn phải trở lại đời này nữa.

Cónhững Tỳ-khưu là những vị Nhất lai, đã đoạn trừ ba kiếtsử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, sau khi sanh vào đờinày một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau.

Cónhững Tỳ-khưu là những vị Dự lưu, đã đoạn trừ ba kiếtsử, không còn đọa vào ác đạo, chắc chắn sẽ được giácngộ". - (Trung bộ, 118)

*

Ngườiđạt quả Dự lưulà người đã đoạn trừ ba kiếtsử đầu tiên: thân kiến, hoài nghi, và giới cấm thủ. Ngườinầy được xem như là một người đã nhập vào dòng giảithoát, tùy theo hạnh nghiệp và tinh tấn mà chỉ tái sinh làmngười hoặc trong các cõi trời, tối đa là bảy kiếp, vìvậy có sách gọi là quả Thất lai. Người nầy còn đượcgọi là đã mở "Pháp nhãn", vì người ấy đã bắt đầucó thanh tịnh về quan kiến, đã trực nhận rõ ràng ChánhPháp của Ðức Phật. Người đó không còn xem mình như làmột bản thể riêng biệt và thường tồn, kể cả hình sắcvà tâm thức. Người đó không còn một chút nghi ngờ nàovề sự hiện hữu và lợi ích của Tam Bảo: không còn hoàinghi về sự giác ngộ của Ðức Phật, không còn hoài nghivề con đường mà Ðức Phật đã vạch ra để đi đến giácngộ, không còn hoài nghi về những đệ tử của Ngài đãđi theo con đường ấy và đã đạt được sự giải thoáttối hậu. Người ấy cũng không còn có ảo tưởng rằng NiếtBàn có thể đạt được bằng cách ép mình vào các hình thứclễ nghi phiến diện hay các điều lệ ước định nào đó.

Thânkiến, kiết sử đầu tiên, là sự hiểu sai lạc về cái gọilà Tự ngã, hay cái Tôi, đồng hóa nó với một trong năm uẩn(sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Trong bài kinh số 44, thuộcTrung Bộ, Ni sư Dhammadina giảng rằng một người đã đoạntrừ thân kiến là một người "không xem sắc là tự ngã,không xem tự ngã là có sắc, không xem sắc là trong tự ngã,không xem tự ngã là trong sắc", tương tự như thế đốivới bốn uẩn còn lại.

Cóngười thường hiểu lầm về chữ "hoài nghi" dùng ở đây.Tiếng Pāli là "vicikicchā", thường dùng để chỉ tháiđộ nghi ngờ về Phật Pháp Tăng và về lý Duyên sinh. NgàiPhật Âm (Buddhaghosa), trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo,nói rằng vicikicchācòn là một thái độ do dự, khôngnhất quyết, không sẵn sàng tra vấn, học hỏi. Do đó cầnphải đoạn trừ kiết sử nầy. Ðức Phật khuyến khích chúngta phải biết nỗ lực suy tư, luận giải và chứng nghiệmngay trong đời sống hằng ngày, vì Pháp là "mời mọi ngườiđến xem xét" (ehipassika). Ðể rồi chúng ta thấy, biếtrõ ràng sự ích lợi của Phật Pháp cho con đường hành trìcủa ta, và từ đó, có một niềm tin vững chắc vào Tam Bảo,không còn thắc mắc, phân vân, hay do dự gì nữa.

Chữ"giới cấm thủ" cũng thường bị hiểu lầm. Ở đây đểchỉ thái độ mê tín mù quáng, bám thủ vào các hình thứclễ nghi, tin rằng làm như thế là đủ để thanh lọc tâm.Đoạn trừ giới cấm thủ không có nghĩa là một thái độbuông lơi, phóng túng, dễ duôi, không giữ gìn giới hạnh.Trái lại, nó có nghĩa là một thái độ minh triết, xem giớiluật như là một phương tiện tốt, cần thiết để luyệntâm, nhưng lại không mù quáng, không quá lệ thuộc vào cáchình thức giáo điều. Một người không còn giới cấm thủlà một người lúc nào cũng có giới đức trong sạch, nhưngsống thảnh thơi trong giới luật đạo hạnh, không còn xemđó là một gánh nặng trên con đường hành trì của mình.

Đểtrừ khử các kiết sử trên, Đức Phật khuyên chúng ta phảinỗ lực thực hành bốn điều: (1) thân cận bậc chân nhân,(2) lắng nghe diệu pháp, (3) như lý tác ý, và (4) thực hànhpháp và tùy pháp, như đã ghi trong Tương Ưng 55.11:

"Thâncận bậc Chân nhân là Dự lưu phần.
Nghediệu pháp là Dự lưu phần.

Nhưlý tác ý là Dự lưu phần.

Thựchành pháp và tùy pháp là Dự lưu phần".
RồiNgài giảng về sự liên quan của bốn pháp trên:

-"Này các Tỳ-khưu, giao thiệp với bậc Chân nhân được viênmãn thời làm viên mãn nghe diệu pháp; nghe diệu pháp đượcviên mãn thời làm viên mãn lòng tin; lòng tin được viên mãn,thời làm viên mãn như lý tác ý; như lý tác ý được viênmãn, thời làm viên mãn chánh niệm tỉnh giác; chánh niệmtỉnh giác được viên mãn, thời làm viên mãn các căn đượcchế ngự; các căn được chế ngự được viên mãn, thờilàm viên mãn Ba thiện hành; Ba thiện hành được viên mãn,thời làm viên mãn Bốn niệm xứ; Bốn niệm xứ được viênmãn, thời làm viên mãn Bảy giác chi; Bảy giác chi đượcviên mãn, thời làm viên mãn Minh giải thoát" (Tăng Chi 10.61).

Vềthân cận bậc chân nhân, Ngài giảng:

-"Thế nào là làm bạn với thiện? Ở đây, thiện nam tử sốngtại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có gia chủ hay conngười gia chủ, những trẻ được nuôi lớn trong giới đức,hay những người lớn tuổi được lớn lên trong giới đức,đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí,đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận.Với những người đầy đủ lòng tin, vị ấy học tập vớiđầy đủ lòng tin. Với những người đầy đủ giới đức,vị ấy học tập với đầy đủ giới đức. Với những ngườiđầy đủ bố thí, vị ấy học tập với đầy đủ bố thí.Với những người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học tập vớiđầy đủ trí tuệ. Đây gọi là làm bạn với thiện" (TăngChi 8.54).

RồiNgài khuyên:

Nếuthấy bậc hiền trí,
Chỉlỗi và khiển trách,

Nhưchỉ chỗ chôn vàng,

Hãythân cận người trí!

Thâncận người như vậy,

Chỉtốt hơn, không xấu. (Pháp Cú, 76)

Chớthân với bạn ác,
Chớthân kẻ tiểu nhân.

Hãythân người bạn lành,

Hãythân bậc thượng nhân. (Pháp Cú, 78)

ĐứcPhật đề cập đến 5 lợi ích của việc biết nghe diệupháp: (1) được nghe điều chưa nghe, (2) làm cho trong sạchđiều được nghe, (3) đoạn trừ nghi, (4) làm cho tri kiếnchánh trực, và (5) làm cho tâm tịnh tín (Tăng Chi, 5.202).

Trongkinh "Tất cả các lậu hoặc" (Trung Bộ 2), Đức Phật dạyvề pháp như lý tác ý để điều hướng các sự suy nghĩcủa mình sao cho có lợi lạc trên đường tu tập, như sau:

-"Này các Tỳ-khưu, thế nào là các pháp cần phải tác ý vàvị ấy tác ý? Này các Tỳ-khưu, những pháp nào do vị ấytác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậuđã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanhkhởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậuchưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừdiệt, đó là những pháp cần phải tác ý và vị ấy tácý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tácý, tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưasanh không sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừdiệt.

Vịấy như lý tác ý: Ðây là khổ; như lý tác ý: Ðây là khổtập; như lý tác ý: Ðây là khổ diệt; như lý tác ý: Ðâylà con đường đưa đến khổ diệt. Nhờ vị ấy tác ý nhưvậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giớicấm thủ. Này các Tỳ-khưu, các pháp ấy được gọi là phápdùng tri kiến để đoạn trừ các lậu hoặc".

KhiTỳ-khưu Kotthika hỏi ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất cần phảinhư lý tác ý thế nào để được giải thoát, ngài đáp:

-"Này Hiền giả Kotthika, Tỳ-khưu giữ giới cần phải nhưlý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ungnhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại,rỗng không, vô ngã.

Nămthủ uẩn đó là gì? Đó là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn,tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này Hiềngiả Kotthika, vị Tỳ-khưu giữ giới cần phải như lý tácý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt,mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗngkhông, vô ngã" (Tương Ưng 22.122).

Vềthực hành pháp và tùy pháp, ở đây được giảng rộng ra,bao gồm chánh niệm tỉnh giác, phòng hộ các căn, huân tậpba thiện hành (thân, khẩu, ý), thực hành bốn niệm xứ (thân,thọ, tâm pháp), và phát triển bảy giác chi (niệm, trạchpháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả).

Trongnhiều bài kinh (Tương Ưng Bộ, Phẩm Dự Lưu), Đức Phậtthường đề cập đến bốn đặc tính của một vị thánhDự lưu là: niềm tín thành bất động nơi Đức Phật, nơiGiáo Pháp của Ngài, nơi đoàn thể các vị Thánh Tăng và cógiới đức cao thượng, lúc nào cũng được các bậc chânnhân khen ngợi. Trong Tăng Chi 10.92, Ngài giảng:

-"Thế nào là thành tựu bốn Dự lưu phần? Ở đây, này Giachủ, vị Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đốivới Đức Phật: Ðây là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh ÐẳngGiác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô ThượngSĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp: Phápđược Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, khôngcó thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng,được người trí tự mình giác hiểu. Vị ấy thành tựutịnh tín bất động đối với chúng Tăng: Diệu hạnh làchúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử ThếTôn; Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chơn chánh hạnhlà chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúngđệ tử Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được tôntrọng, đáng được đảnh lễ, đáng được chắp tay, làphước điền vô thượng ở đời. Vị ấy thành tựu vớinhững giới đức được các bậc Thánh ái kính, không bịphá hủy, không bị bể vụn, không bị điểm chấm, khôngbị uế nhiễm, đưa đến giải thoát, được bậc trí tánthán, không bị chấp trước, đưa đến thiền định."

Mặcdù đoạn kinh trên thường được xem là các tiêu chuẩn cănbản của quả Dự lưu, trong kinh điển còn có ghi các danhsách khác, trong đó, tiêu chuẩn về giới hạnh được thaythế bằng tiêu chuẩn bố thí và trí tuệ:

- TươngƯng 55.32 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: "Lại nữa, vịThánh đệ tử trú ở gia đình, với tâm thoát khỏi cấu uếcủa xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thútừ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia xẻ vậtbố thí."

- TươngƯng 55.33 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: "Lại nữa, vịThánh đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệtcác pháp, trí tuệ các bậc Thánh thể nhập các pháp, đưađến chơn chánh đoạn tận khổ đau."

Khicác danh sách liệt kê này được kết hợp lại, chúng ta cóđược bốn đức tính của vị Thánh Dự Lưu: (1) đầy đủlòng tin, (2) đầy đủ giới đức, (3) đầy đủ bố thí,và (4) đầy đủ trí tuệ.

Đócũng là bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tươnglai cho một cư sĩ Phật tử:

-"Có bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tươnglai cho thiện nam tử. Thế nào là bốn? Đó là đầy đủ lòngtin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trítuệ" (Tăng Chi 8.54).

Ởđây, lòng tin nơi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) không phải chỉđơn thuần là sự tin tưởng, sùng tín mù quáng. Vị Dự Lưuthật sự tín nhiệm, tin tưởng nơi nguyên lý nghiệp quả- nguyên lý của hành động và hậu quả - vì vị ấy đãchứng nghiệm rõ ràng khi bắt đầu nhập dòng Thánh.

*

Tronggiai đoạn tu tập kế tiếp, khi tham dục (tham đắm vào dụcgiới) và sân hận được trừ khử một cách đáng kể thìngười đó đắc quả Nhất lai, nghĩa là có thể còntái sinh làm người hoặc trong cõi trời dục giới một lầnnữa. Khi hai kiết sử tham dục và sân hận được loại bỏhoàn toàn, thì người ấy đắc quả Bất lai, nghĩa làkhông còn tái sinh vào cõi dục giới nầy nữa. Năm kiết sửđầu tiên nầy gọi là hạ phần kiết sử (orambhāgiya-samyojana),cột trói chúng sinh trong cõi dục. Tùy theo trình độ chứngđạt, bậc thánh Bất lai sẽ thác sinh về Tịnh cư thiên thuộccõi trời sắc giới (rūpa-loka), trước khi nhập Niết-bàntối hậu. Ba quả vị Dự lưu, Nhất lai, Bất lai cũng thườngđược gọi chung là quả vị của bậc thánh Hữu học.

Ngườiấy tiếp tục hành trì thanh lọc tâm ý, và tinh tấn trừkhử năm kiết sử còn lại: tham đắm vào cõi sắc, tham đắmvào cõi vô sắc, trạo cử vi tế, mạn, và si vi tế. Năm kiếtsử nầy gọi là thượng phần kiết sử (uddhambhāgiya-samyojana),cột trói chúng sinh trong cõi sắc và vô sắc. Ở đây, thamđắm vào cõi sắc và cõi vô sắc là sự tham đắm vào bốntầng thiền-na hữu sắc (rūpa-jhāna)và bốn tầng thiền-navô sắc (arūpa-jhāna). Trạo cử vi tế là trạng tháivẫn còn một vài giao động nhỏ trước trần cảnh, mạn(māna)là các ý tưởng so sánh, và si vi tế là mộtvài dấu vết vô minh ngăn che còn sót lại.

*

Ðếnlúc đó, người ấy đã phá tung tất cả mười sợi dây tróibuộc, trừ khử mười loại kiết sử ô nhiễm, lậu hoặcđã đoạn tận, tuệ giác khai mở, không còn tạo nghiệp,không còn phải tái sinh, luân hồi nữa. Nói một cách khác,như đã mô tả trong Trung Bộ Kinh, bài kinh số 1 (Kinh PhápMôn Căn Bản), đối với người ấy: "các lậu hoặc đãtận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặtgánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừhữu kiết sử, đạt chánh trí giải thoát". Người ấytrở thành bậc A-la-hán, bậc thánh Vô học, đắc đạoquả Niết Bàn, giải thoát rốt ráo tối hậu.







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/06/2014(Xem: 15119)
Trăng hạ huyền chếch trên đầu ngọn thông cuối đường. Một mình giữa đêm. Trụ đèn kiên nhẫn đứng thẳng và im lặng; bên cạnh cây bạch đàn cao ngất đang lao xao trước gió. Đèn vàng lay lắt tỏa bóng trong màn sương. Màu bông giấy đỏ rực dưới nắng mai, giờ trở nên tím sẫm. Con mèo lầm lũi, bước nhẹ trên mái nhà ai. Hoa một đóa, nở trong vườn đêm tịch mịch. Mùi cỏ dại phảng phất đâu đây. Trong phút giây bỗng thấy đời thênh thang, vô cùng.
23/06/2014(Xem: 8401)
Lễ kỉ niệm 7 năm phát triển của Thaihabooks nhân đôi niềm hoan hỷ với buổi giao lưu giữa Thầy Chân Pháp Đăng và các độc giả Phật tử về cuốn sách “ Trị liệu ung thư bằng chính niệm” vào lúc 13h ngày 20/6/2014, tại nhà Sách Thái Hà, số 119C5 Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, Cầu Giấy.
23/06/2014(Xem: 16207)
"Thiền tông Việt Nam luôn là mạch sống tuôn chảy trong lòng Phật giáo và dân tộc suốt từ thế kỷ VI đến nay. Có lúc mạnh mẽ tuôn tràn giữa ngàn hoa đô hội, có lúc len lỏi âm thầm trong núi sâu, rừng thẳm, ung dung thoát tục, khuất tịch tiêu sái. Tuy nhiên, mạch sống Thiền xưa nay vẫn như vậy: Không đến không đi mà là dòng sinh mệnh muôn thuở của những bậc thức tâm đạt bổn.
21/06/2014(Xem: 10508)
Chúng tôi, Nhóm Học Phật chùa Quang Nghiêm, gồm một số thân hữu và những huynh trưởng Gia Đình Phật Tử trong vùng có cơ duyên gần gũi và học hỏi cùng thầy trong nhiều năm qua. Nhân đó, chúng tôi được biết, Thầy là một cây viết thường xuyên trên tập san: THEO DẤU CHÂN XƯA của Phật học viện Huệ Nghiêm, SÀI GÒN trước 1975. Nhưng sau những đợt đốt sách của chính quyền Cộng Sản, THEO DẤU CHÂN XƯA không còn nữa. Càng gần Thầy, chúng tôi nhận thấy những gì Thầy dạy và viết thật thực tế và giản dị trong việc áp dụng Đạo Phật vào đời sống hằng ngày cho chúng ta. Chúng tôi không muốn có sự thất thoát như xưa, nên mạo muội sưu tập một số bài mà Thầy đã viết trong thời gian qua. Đây là một món quà tinh thần của Thầy mà chúng tôi đã rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hàng ngày. Có một điều quan trọng nữa là bài học thân giáo của Thầy: phong cách hiền hòa và đức độ lan tỏa từ Thầy êm đềm như dòng sông Thu Bồn xứ Quảng. Trong bất cứ lúc nào, nếu có dịp, Thầy thường nhắc nhở: “Học Phật có n
19/06/2014(Xem: 14975)
Hoài bảo một "CÁI MỘNG" trên 25 năm mới hoàn toàn thực hiện Trong lúc du học ở Xuân Kinh(1938), đến mùa hè năm 1941, tôi được dịp may dự thính lớp Giáo Lý của Đoàn Thanh Niên Dục Đức, trong một tháng (mỗi đêm giảng 2 giờ) , do Bác sĩ Lê Đình Thám đảm trách (lớp này hiện nay còn Thượng Toạ Thích Minh Châu và Đạo hữu Võ Đình Cường v.v...) Tôi thích thú quá! Vì thấy bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình bày một triết lý cao siêu của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á làm cho người nghe rất thích thú vì hiểu được rằng triết lý cao siêu của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng rành mạch của Tây phương. Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
09/06/2014(Xem: 20020)
Một lòng giữ niệm Di Đà, Hồng danh sáu chữ thật là rất cao, Năng trừ tám vạn trần lao, Người đời nên sớm hồi đầu mới hay. Khuyên ai xin chớ mê say, Tịnh tâm niệm Phật việc gì cũng an, Niệm Phật tội nghiệp tiêu tan, Muôn tai ngàn họa khỏi mang vào mình.
08/06/2014(Xem: 7263)
Buổi sáng sớm đầu xuân, tôi theo Scott đi thăm chi hội Phật tử tại nhà tù tiểu bang (Prison Sangha). Từ xa lộ cao tốc hiện đại, lấy lối rẽ vào con đường nhỏ xuyên qua cánh rừng thông cao dày, một nhà tù khổng lồ giữa cánh đồng mênh mông trống vắng sừng sững hiện ra.
08/06/2014(Xem: 20670)
Chữ Đạo, là tiếng Trung Hoa,dịch ra Việt ngữ là con đường.Con đường được có hai loại : Có hình tướng,không hình tướng. Có hình tướng (hữu vi tướng),là đường trên mặt đất như những con đường mòn trên núi, trong làng,đường quốc lộ từ tỉnh này qua tỉnh khác,gọi là đường cái quang. Đường để cho người đi,xe chạy trên đó và đường sắt( xe lửa ).Cũng có đường dưới mặt đất,gọi là địa đạo.Địa đạo có hai loại : đường xe lửa ngầm (Subway) và đường hầm.Những con đường sau đây ,cũng thuộc về hữu tướng;như:đường công danh, đường đời, đường khổ, đường sanh mạng, đường song song, đường chân trời, đường hàng không, đường cùng, đường xích đạo,v.v…Những con đường có tướng cũng có hai: Bằng phẳng và khúc khuỷu, ổ gà, ghồ ghề.
06/06/2014(Xem: 14922)
Đây là quyển sách do chúng tôi biên soạn, gồm những bài viết rời rạc. Mỗi bài, có mỗi đề tài khác nhau. Mục đích là nhằm giúp cho quý liên hữu ở đạo tràng Quang Minh tu học. Những bài viết gồm có: 1. Vài nét về quá trình sinh hoạt Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh Đạo Tràng. 2. Một đạo tràng lý tưởng. 3. Đối chiếu sự dị đồng giữa Ta bà và Cực lạc. 4. Cẩm nang tu tập (đặc biệt dành cho khóa tu ). Những tài liệu nầy trong thời gian qua, chúng tôi đã lần lượt đem ra trình bày hướng dẫn cho đạo tràng tu học. Với thâm ý của chúng tôi, là muốn cho mỗi liên hữu hiểu rõ thêm về đường lối tu tập, cũng như những lễ nghi hành trì cho đúng phương pháp mà Phật Tổ đã chỉ dạy.
06/06/2014(Xem: 26818)
Thơ và Tạp Bút là tập sách mà chúng tôi kết hợp chia làm hai phần: Phần đầu là những bài thơ mà chúng tôi đã sáng tác sau khi tập thơ Hướng Dương ra đời. Phần hai là những bài viết rời rạc qua những chủ đề khác nhau. Chúng tôi kết hợp lại tất cả những bài viết đó để in chung trong tập sách. Chúng tôi đặt danh đề chung cho quyển sách là “Một Cõi Đi Về”. Vì chúng tôi thiết nghĩ, cõi đời có muôn vạn nẻo nhưng lối về nguồn chơn thì chỉ có một. Giống như trăm sông, ngàn suối tuôn chảy mỗi hướng có khác nhau, nhưng tất cả cũng đều chảy chung về biển cả. Nói cách khác, đứng về mặt hiện tượng sự tướng thì vạn pháp có ra muôn ngàn sai khác, nhưng bản thể thì chỉ có một. Đó là ý nghĩa của câu nói: “Vạn vật đồng nhứt thể hay vạn pháp quy nhứt”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]