Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Bốn sự thật cao quý

07/02/201109:32(Xem: 10049)
03. Bốn sự thật cao quý

THƯƠNGYÊU LÀ THÔNG CẢM
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549

-03-

Bốnsự thật cao quý
Tríchlục kinh điển

Bàinầy dựa theo bản Anh ngữ "The Four Noble Truths - A Study Guide"của Tỳ-khưu Thanissaro, đăng trong trang web Access-to-Insight,và các bản Việt ngữ của Hòa Thượng Thích Minh Châu (ÐạiTạng Kinh Việt Nam).
ÐứcThế Tôn bảo các vị Tỳ-khưu: "Nầy các Tỳ-khưu, bởi vìkhông thông hiểu, không thấu đạt Bốn Sự Thật Cao Quý (TứDiệu Ðế) mà ta cũng như quý vị từ lâu đã phải trảiqua nhiều kiếp luân hồi trong vòng sinh tử. Bốn sự thậtấy là gì?

Vìkhông thông hiểu Sự Thật về Khổ (Khổ Ðế) mà chúng taluân hồi, không thông hiểu Sự Thật về Nguồn Gốc củaKhổ (Tập Ðế), không thông hiểu về Sự Thật về ÐoạnDiệt Khổ (Diệt Ðế), không thông hiểu Sự Thật về ConÐường Diệt Khổ (Ðạo Ðế), mà chúng ta đã phải luânhồi trong vòng sinh tử. Bằng cách thông hiểu, bằng cách thấuđạt Sự Thật về Khổ, Sự Thật về Nguồn Gốc của Khổ,Sự Thật về Ðoạn Diệt Khổ, Sự Thật về Con Ðường DiệtKhổ, lòng tham thủ về sinh hữu được đoạn tận, sự hỗtrợ để sinh hữu được phá hủy, và từ đó không còn phảitái sinh nữa."

-Kinh Ðại Bát Niết Bàn (Trường Bộ, 16)
ÐứcPhật giảng về sự Giác Ngộ của Ngài:

"Trikiến phát sinh, minh sát phát sinh, tuệ giác phát sinh, hiểubiết phát sinh, minh kiến phát sinh trong ta, về những điềumà từ trước ta chưa từng nghe đến:

- Ðâylà Sự Thật Tuyệt Ðối về Khổ ... Khổ nầy phải đượcthông hiểu ... Khổ nầy vừa được thông hiểu.

- Ðâylà Sự Thật Tuyệt Ðối về Nguồn Gốc của Khổ ... NguồnGốc nầy phải được đoạn tận ... Nguồn Gốc nầy vừađược đoạn tận.

- Ðâylà Sự Thật Tuyệt Ðối về Sự Diệt Khổ ... Diệt Khổnầy phải được trực nghiệm ... Diệt Khổ nầy vừa đượctrực nghiệm.

- Ðâylà Sự Thật Tuyệt Ðối về Con Ðường Diệt Khổ ... ConÐường nầy phải được thực chứng ... Con Ðường nầyvừa được thực chứng.

Nầycác vị Tỳ-khưu, khi nào mà sự hiểu biết và nhận thứcnầy của ta - với ba vòng chuyển và mười hai kết hợp vềbốn Sự Thật Tuyệt Ðối đó - không tinh thuần, ta khôngthể khẳng định rằng ta là Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác,vượt hơn tất cả mọi loài trong vũ trụ, chư thiên, ma quỷ,phàm phu, tu sĩ, vua chúa và thường dân. Tuy nhiên, ngay khi sựhiểu biết và nhận thức nầy của ta - với ba vòng chuyểnvà mười hai kết hợp về bốn Sự Thật Tuyệt Ðối đó- hoàn toàn thật sự tinh thuần, ta khẳng định rằng ta làBậc Chánh Ðẳng Chánh Giác, vượt hơn tất cả mọi loàitrong vũ trụ, chư thiên, ma quỷ, phàm phu, tu sĩ, vua chúa vàthường dân. Tuệ giác và tri kiến phát khởi trong ta: 'SựGiải Thoát đã xảy ra. Ðây là kiếp sống cuối cùng. Khôngcòn phải tái sinh nữa.'"

-Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng, 56.11)
1.Diệu Ðế về Khổ

1.a)Ðịnh nghĩa:

"Nầycác vị Tỳ-khưu, đây là Diệu Ðế về Khổ: Sinh là khổ,già là khổ, chết là khổ; ưu sầu, than khóc, đau đớn, buồnrầu, và tuyệt vọng là khổ; liên kết với những điềukhông ưa thích là khổ, cách ly những điều ưa thích là khổ;không đạt được những gì mong muốn là khổ; tóm lại, cảnăm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) để tham thủ làkhổ."

-Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng, 56.11)
1.b)Sáu căn:

"Vàthế nào là Diệu Ðế về Khổ? Câu trả lời phải là sáucăn đều khổ. Sáu căn đó là gì? Là căn của mắt (nhãncăn), căn của tai (nhĩ căn), căn của mũi (tỷ căn), căn củalưỡi (thiệt căn), căn của thân (thân căn), và căn của ý(ý căn). Ðây là Sự Thật Cao Quý về Khổ."

-Tương Ưng, 56.14
1.c)Khổ như lửa cháy:

"Tấtcả đều là lửa cháy. Cái gì là lửa cháy?

- Mắtlà lửa cháy. Hình sắc là lửa cháy. Nhận thức từ mắtlà lửa cháy. Tiếp cận qua mắt là lửa cháy. Những gì sinhkhởi tùy thuộc vào sự tiếp cận qua mắt, cảm giác nhưlà khoái lạc, đau đớn, hoặc không lạc không đau, đềuđang thiêu cháy...

- Tailà lửa cháy. Âm thanh là lửa cháy. Nhận thức từ tai làlửa cháy. Tiếp cận qua tai là lửa cháy. Những gì sinh khởitùy thuộc vào sự tiếp cận qua tai, cảm giác như là khoáilạc, đau đớn, hoặc không lạc không đau, đều đang thiêucháy...

- Mũilà lửa cháy. Mùi hương là lửa cháy. Nhận thức từ mũilà lửa cháy. Tiếp cận qua mũi là lửa cháy. Những gì sinhkhởi tùy thuộc vào sự tiếp cận qua mũi, cảm giác như làkhoái lạc, đau đớn, hoặc không lạc không đau, đều đangthiêu cháy...

- Lưỡilà lửa cháy. Vị nếm là lửa cháy. Nhận thức từ lưỡilà lửa cháy. Tiếp cận qua lưỡi là lửa cháy. Những gìsinh khởi tùy thuộc vào sự tiếp cận qua lưỡi, cảm giácnhư là khoái lạc, đau đớn, hoặc không lạc không đau, đềuđang thiêu cháy...

- Thânlà lửa cháy. Vật xúc chạm là lửa cháy. Nhận thức từthân là lửa cháy. Tiếp cận qua thân là lửa cháy. Nhữnggì sinh khởi tùy thuộc vào sự tiếp cận qua thân, cảm giácnhư là khoái lạc, đau đớn, hoặc không lạc không đau, đềuđang thiêu cháy...

- Ýlà lửa cháy. Tư tưởng là lửa cháy. Nhận thức từ ý làlửa cháy. Tiếp cận qua ý là lửa cháy. Những gì sinh khởitùy thuộc vào sự tiếp cận qua ý, cảm giác như là khoáilạc, đau đớn, hoặc không lạc không đau, đều đang thiêucháy. Thiêu cháy với gì? Thiêu cháy với lửa tham, lửa sân,và lửa si. Ta nói với quý vị rằng tất cả đều đang thiêucháy với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc, đau đớn, buồnrầu, và tuyệt vọng."

-Tương Ưng, 35.28
2.Diệu Ðế về Nguồn Gốc của Khổ

"Nầycác vị Tỳ-khưu, đây là Diệu Ðế về Nguồn Gốc của Khổ:lòng tham thủ làm cho sinh hữu - kèm theo với ham muốn và ưathích, thêm vào chỗ nầy chỗ kia, nghĩa là tham thủ các dụclạc, tham thủ thường sinh, tham thủ đoạn sinh."

-Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng, 56.11)
Aisống trong đời này,
Bịái dục buộc ràng
Sầukhổ sẽ tăng trưởng,
Nhưcỏ Bi gặp mưa.

Aisống trong đời này
Áidục được hàng phục
Sầurơi khỏi người ấy
Nhưgiọt nước lá sen. (Pháp Cú, 335-336)

Nhưcây bị chặt đốn,
Gốcchưa hại vẫn bền
Áitùy miên chưa nhổ,
Khổnày vẫn sanh hoài. (Pháp Cú, 338)

3.Diệu Ðế về Sự Diệt Khổ

"Nầycác vị Tỳ-khưu, đây là Diệu Ðế về Diệt Khổ: sự tànlụn và ngưng không còn tàn dư, sự xuất ly, sự từ bỏ,sự giải phóng, và sự buông bỏ lòng tham thủ."

-Tương Ưng, 56.11
3.a)Tháo gỡ các nguyên nhân về khổ:

"Tabảo với các vị Tỳ-khưu, việc chấm dứt các lậu hoặckhông thể nào có được nơi những người không thấy vàkhông biết. Thấy gì và biết gì? 'Ðây là sắc, đây là nhâncủa nó, đây là sự tan biến của nó. Ðây là cảm thọ,đây là nhân của nó, đây là sự tan biến của nó. Ðây làtưởng, đây là nhân của nó, đây là sự tan biến của nó.Ðây là hành, đây là nhân của nó, đây là sự tan biến củanó. Ðây là thức, đây là nhân của nó, đây là sự tan biếncủa nó.' Việc chấm dứt các lậu hoặc chỉ có thể xảyra nơi những người thấy và biết như thế.

Tuệgiác về sự đoạn diệt khi đoạn diệt hiện hữu là do duyênsinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên sinhcủa nó là gì? Ðó là sự giải phóng.

- Giảiphóng là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyênsinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là sự lạnh nhạt.

- Sựlạnh nhạt là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu khôngdo duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là sự chán chường.

- Chánchường là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không doduyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là tri kiến về bảnchất của sự vật.

- Trikiến về bản chất của sự vật là do duyên sinh. Nó khôngthể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì?Ðó là tâm định tĩnh.

- Tâmđịnh tĩnh là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu khôngdo duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là thư thái.

- Thưthái là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyênsinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là khinh an.

- Khinhan là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyênsinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là hỷ.

- Hỷlà do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.Duyên sinh của nó là gì? Ðó là lạc.

- Lạclà do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.Duyên sinh của nó là gì? Ðó là tín tâm.

- Khổlà do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.Duyên sinh của nó là gì? Ðó là tái sinh.

- Táisinh là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyênsinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là hữu.

- Hữulà do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.Duyên sinh của nó là gì? Ðó là thủ.

- Thủlà do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.Duyên sinh của nó là gì? Ðó là tham muốn.

- Thammuốn là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyênsinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là thọ.

- Thọlà do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.Duyên sinh của nó là gì? Ðó là tiếp xúc.

- Tiếpxúc là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyênsinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là sáu xứ (mắt, tai, mũi,lưỡi, thân, ý).

- Sáuxứ là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyênsinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là danh sắc.

- Danhsắc là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyênsinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là thức.

- Thứclà do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.Duyên sinh của nó là gì? Ðó là nghiệp hành.

- Nghiệphành là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyênsinh. Duyên sinh của nó là gì? Ðó là vô minh.

Cũngnhư khi chư thiên làm mưa sấm, trút nước vào vùng núi cao,nước nầy chảy xuống theo triền dốc, làm đầy các khe núi,hang động. Khi các khe và hang động đầy tràn, nước sẽchảy xuống các hồ nhỏ. Khi các hồ nhỏ đầy tràn, nướcsẽ chảy xuống các hồ lớn. Khi các hồ lớn đầy tràn,nước sẽ chảy xuống các dòng suối. Khi các dòng suối đầytràn, nước sẽ chảy xuống các sông lớn. Khi các sông lớnđầy tràn, nước sẽ chảy ra đại dương. Cùng thế ấy:

Hànhcó vô minh là duyên,
Thứccó hành là duyên
Danhsắc có thức là duyên
Sáuxứ có danh sắc là duyên,
Tiếpxúc có sáu xứ là duyên,
Thọcó tiếp xúc là duyên,
Thammuốn có thọ là duyên,
Chấpthủ có tham muốn là duyên,
Hữucó chấp thủ là duyên,
Sinhcó hữu là duyên,
Hoạnkhổ có sinh là duyên,
Tíntâm có hoạn khổ là duyên,
Lạccó tín tâm là duyên,
Hỷcó lạc là duyên,
Khinhan có hỷ là duyên,
Thưthái có khinh an là duyên,
Tâmđịnh tĩnh có thư thái là duyên,
Trikiến về bản chất của sự vật có tâm định tĩnh là duyên,
Chánchường có tri kiến về bản chất của sự vật là duyên,
Lạnhnhạt có chán chường là duyên,
Giảiphóng có lạnh nhạt là duyên,
Tuệgiải thoát có giải phóng là duyên."
-Tương Ưng, 12.23
3.b)Lý Duyên Sinh:

"Phươngcách cao quý nào cần phải được nhận thấy đúng đắn vàphân biệt rõ ràng bằng trí tuệ? Ðây là lúc một ngườiđệ tử cao sang quán xét được rằng:

Khicái nầy hiện hữu thì cái kia hiện hữu
Từviệc khởi sinh cái nầy thì có khởi sinh cái kia.
Khicái nầy không hiện hữu thì cái kia không hiện hữu,
Từviệc đoạn diệt cái nầy thì có đoạn diệt cái kia."

Nóicách khác:

"Vôminh là duyên của hành,
Hànhlà duyên của thức,
Thứclà duyên của danh sắc,
Danhsắc là duyên của sáu xứ,
Sáuxứ là duyên của tiếp xúc,
Tiếpxúc là duyên của thọ,
Thọlà duyên của tham,
Thamlà duyên của chấp thủ,
Chấpthủ là duyên của hữu,
Hữulà là duyên của sinh,
Sinhlà duyên của già, chết, ưu sầu, than khóc,
đauđớn, buồn rầu, và tuyệt vọng.

Ðólà nguồn gốc rốt ráo của hoạn khổ.

Giờđây, chấm dứt và đoạn diệt vô minh, đưa
đếnđoạn diệt hành,
Ðoạndiệt hành đưa đến đoạn diệt thức,
Ðoạndiệt thức đưa đến đoạn diệt danh sắc,
Ðoạndiệt danh sắc đưa đến đoạn diệt sáu xứ,
Ðoạndiệt sáu xứ đưa đến đoạn diệt tiếp xúc,
Ðoạndiệt tiếp xúc đưa đến đoạn diệt cảm thọ,
Ðoạndiệt cảm thọ đưa đến đoạn diệt tham muốn,
Ðoạndiệt tham muốn đưa đến đoạn diệt chấp thủ,
Ðoạndiệt chấp thủ đưa đến đoạn diệt hữu,
Ðoạndiệt hữu đưa đến đoạn diệt sinh,
Ðoạndiệt sinh đưa đến đoạn diệt già, chết, ưu sầu, than khóc,đau đớn, buồn rầu, và tuyệt vọng.

Ðó làsự chấm dứt rốt ráo các hoạn khổ.

Ðâylà phương cách cao quý cần phải được nhận thấy đúngđắn và phân biệt rõ ràng bằng trí tuệ."

-Tăng Chi, 10.92
4.Diệu Ðế về Con Ðường Diệt Khổ

4.a)Bát Chánh Ðạo:

"Nầycác vị Tỳ-khưu, đây là Diệu Ðế về Con Ðường DiệtKhổ, đó chính là Con Ðường Tám Chánh: Chánh Kiến, ChánhTư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn,Chánh Niệm, Chánh Ðịnh."

-Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng, 56.11)
BátChánh Ðạo là Pháp Thừa (Dhamma-yana):

"NàyAnanda, Con Ðường Tám Chánh nầy là đồng nghĩa với cỗ xetối thượng, là cỗ xe Pháp, là sự chiến thắng vô thượngtrong mọi chiến trận nhiếp phục tham, sân, si."

-Tương Ưng, 5.4
Ðịnhnghĩa về tám chi phần:

"Nàycác vị Tỳ-khưu, thế nào là chánh tri kiến? Ðó làsự thông hiểu về khổ, sự thông hiểu về nguyên nhân củakhổ, sự thông hiểu về sự diệt khổ, và sự thông hiểuvề con đường diệt khổ.

Thếnào là chánh tư duy? Ðó là tư duy về sự xuất ly, tưduy về vô sân, tư duy về vô hại.

Thếnào là chánh ngữ? Ðó là từ bỏ nói láo, từ bỏ nóihai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phùphiếm.

Thếnào chánh nghiệp? Ðó là từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấycủa không cho, từ bỏ hành động tà dâm.

Thếnào là chánh mạng? Ðó là đoạn trừ tà mạng, nuôisống với chánh mạng.

Thếnào là chánh tinh tấn? Ðó là tinh tấn ngăn chận khôngcho khởi sanh các bất thiện pháp chưa sanh, tinh tấn trừ diệtcác bất thiện pháp đã sanh, tinh tấn phát khởi các thiệnpháp chưa sanh, và tinh tấn duy trì các thiện pháp đã sanh.

Thếnào là chánh niệm? Ðó là sống quán thân trên thân,nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọi tham ưu trên đời;sống quán thọ trên thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phụcmọi tham ưu trên đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm,tỉnh giác, điều phục mọi tham ưu trên đời; sống quánpháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọitham ưu trên đời.

Thếnào là chánh định? Ðó là ly dục, ly pháp bất thiện,chứng và trú Thiền-na thứ nhất, một trạng thái hỷ lạcdo ly dục sanh, có tầm, có tứ; rồi làm cho tịnh chỉ tầmvà tứ, chứng và trú vào Thiền-na thứ hai, một trạng tháihỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhấttâm; rồi ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảmsự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,chứng và trú vào Thiền-na thứ ba; rồi xả lạc, xả khổ,diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào Thiền-nathứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh."

-Tương Ưng, 5.8
4.b)Tìm lại Con Ðường Cũ Xa Xưa:

"Cómột người đang đi theo một con đường mòn trong rừng. Ðộtnhiên người ấy tìm ra được một con đường cũ xa xưa màcác vị tiền nhân thường dùng. Người ấy liền đi theo conđường ấy. Sau đó, người ấy tìm lại được thành phốcổ xưa mà ngày trước đã có nhiều người trú ngụ, vớicác công viên, vườn cây, hồ ao, đền đài tráng lệ. Ngườiấy trở về, báo cáo với vua và các quan đại thần: 'Thưabệ hạ, khi thần dân đi theo con đường mòn trong rừng, thầndân đã tìm lại được một con đường cũ xa xưa. Thần dânliền đi theo con đường ấy. Sau đó, thần dân tìm lại đượcthành phố cổ xưa mà ngày trước đã có nhiều người trúngụ, với các công viên, vườn cây, hồ ao, đền đài tránglệ. Kính xin bệ hạ hãy trùng tu lại thành phố ấy.' Sauđó, nhà vua và các quan đại thần quyết định trùng tu thànhphố cổ đó, và về sau, thành phố nầy trở nên phồn thịnh,đông dân cư, phát triển lớn mạnh và giàu có.

Cùngthế ấy, ta đã tìm lại con đường cũ xa xưa, một con đườngmà các Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác đều đi qua trong các thờikỳ trước. Con đường cũ xa xưa đó là gì? Ðó là Con ÐườngTám Chánh: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh. Ta đãđi theo con đường ấy.

Theocon đường đó, ta đã có được tri kiến về già và chết,tri kiến về nguyên nhân của già và chết, tri kiến về đoạndiệt già và chết, tri kiến về con đường đoạn diệt giàvà chết.

Theocon đường đó, ta đã có được tri kiến về sinh, tri kiếnvề nguyên nhân của sinh, tri kiến về đoạn diệt sinh, trikiến về con đường đoạn diệt sinh.

Theocon đường đó, ta đã có được tri kiến về hữu, tri kiếnvề nguyên nhân của hữu, tri kiến về đoạn diệt hữu, trikiến về con đường đoạn diệt hữu.

Theocon đường đó, ta đã có được tri kiến về chấp thủ,tri kiến về nguyên nhân của chấp thủ, tri kiến về đoạndiệt chấp thủ, tri kiến về con đường đoạn diệt chấpthủ.

Theocon đường đó, ta đã có được tri kiến về tham muốn, trikiến về nguyên nhân của tham muốn, tri kiến về đoạn diệttham muốn, tri kiến về con đường đoạn diệt tham muốn.

Theocon đường đó, ta đã có được tri kiến về thọ, tri kiếnvề nguyên nhân của thọ, tri kiến về đoạn diệt thọ, trikiến về con đường đoạn diệt thọ.

Theocon đường đó, ta đã có được tri kiến về tiếp xúc, trikiến về nguyên nhân của tiếp xúc, tri kiến về đoạn diệttiếp xúc, tri kiến về con đường đoạn diệt tiếp xúc.

Theocon đường đó, ta đã có được tri kiến về sáu xứ, trikiến về nguyên nhân của sáu xứ, tri kiến về đoạn diệtsáu xứ, tri kiến về con đường đoạn diệt sáu xứ.

Theocon đường đó, ta đã có được tri kiến về danh sắc, trikiến về nguyên nhân của danh sắc, tri kiến về đoạn diệtdanh sắc, tri kiến về con đường đoạn diệt danh sắc.

Theocon đường đó, ta đã có được tri kiến về thức, tri kiếnvề nguyên nhân của thức, tri kiến về đoạn diệt thức,tri kiến về con đường đoạn diệt thức.

Theocon đường đó, ta đã có được tri kiến về nghiệp hành,tri kiến về nguyên nhân của nghiệp hành, tri kiến về đoạndiệt nghiệp hành, tri kiến về con đường đoạn diệt nghiệphành.

Trikiến được như thế, ta đã truyền dạy lại cho các nam vànữ tu sĩ, nam và nữ cư sĩ, để đời sống thánh thiện nầyđược trở nên hùng mạnh, huy hoàng, quảng bá sâu rộng chochư thiên và loài người".

-Tương Ưng, 12.65
4.c)Con đường giải thoát:

"NầySubhada, nếu giáo pháp nào mà không hàm chứa Bát Chánh Ðạothì giáo pháp đó không đào tạo các vị sa môn đạt đạoquả thứ nhất (Dự lưu, Tu-đà-hoàn), không đào tạocác vị sa môn đạt đạo quả thứ hai (Nhất lai, Tư-đà-hàm),không đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ ba (Bấtlai, A-na-hàm), không đào tạo các vị sa môn đạt đạoquả thứ tư (Vô sanh, A-la-hán).

NầySubhada, nếu giáo pháp nào có hàm chứa Bát Chánh Ðạo thìgiáo pháp đó sẽ đào tạo các vị sa môn đạt đạo quảthứ nhất, sẽ đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứhai, sẽ đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ ba, sẽđào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ tư.

NầySubhada, giáo pháp của Ta có hàm chứa Bát Chánh Ðạo nên giáopháp đó đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ nhất,đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ hai, đào tạocác vị sa môn đạt đạo quả thứ ba, đào tạo các vị samôn đạt đạo quả thứ tư. Các hệ giáo pháp khác đềukhông đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thánh, đắctuệ giải thoát. Nầy Subhada, khi nào các vị sa môn tu tậpvà truyền giảng Chánh Pháp một cách đúng đắn thì thếgiới nầy sẽ không bao giờ trống vắng các bậc A-la-hángiải thoát."

-Kinh Ðại Bát Niết Bàn (Trường Bộ, 16:214)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/04/2021(Xem: 7579)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5590)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
27/04/2021(Xem: 4242)
Đêm yên tĩnh. Nhìn ra khung kiếng cửa sổ chỉ thấy một màu đen, đậm đặc. Cây cối, hàng giậu, lẳng hoa, bồn cỏ, ghế đá, và con đường ngoằn ngoèo trong công viên, có thể sẽ khó cho khách bộ hành nhận ra vị trí và thực chất của chúng. Cây bên đường có thể bị nhầm là kẻ trộm đối với cảnh sát, và sẽ là cảnh sát đối với kẻ trộm (1). Giây thừng hay con rắn. Con chim hay con quạ. Con sóc hay con mèo. Người hay quỉ. Mọi vật đều một màu đen. Trong bóng đêm, mọi thứ đều dễ trở nên ma mị, huyễn hoặc.
27/04/2021(Xem: 4049)
Cũng như tình trạng nghiêm trọng của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi chỉ có thể theo đuổi một trong ba trường hợp – chiến đấu, bỏ chạy, hay đàm phán. Ngài có thể tập họp lại đội quân ít ỏi, vũ khí thô sơ, rèn luyện sơ sài và đưa họ đối mặt với một lực lượng quân sự mạnh mẽ vượt trội, biết rằng ngài gần như chắc chắn đang kết án tử hình cho đội quân của ngài và xứ sở của ngài cuối cùng sẽ bị đánh bại. Ngài có thể trốn chạy khỏi đất nước, nhưng như vậy sẽ để lại dân tộc ngài không có lãnh đạo và vẫn chịu sự thương hại của những kẻ xâm lược. Hay, ngài vẫn ở lại Tây Tạng và cố gắng để đàm phán một thỏa hiệp với Tàu Cộng để bảo vệ dân tộc ngài và nền văn hóa của họ. Để thực hiện một quyết định đúng đắn, ngài phải biết hơn về Trung Hoa.
27/04/2021(Xem: 6496)
Được sự cho phép của lãnh đạo chính quyền và sự trợ duyên của nam nữ Phật tử, câc nhà hảo tâm khắp nơi, chùa Diên Khánh đã khởi công trùng tu ngôi Tam Bảo vào ngày 12/3 năm Tân Sửu, nhưng kinh phí còn quá khiêm tốn, nên việc tái thiết trùng tu ngôi chánh điện đang dang dở, trì trệ... Nay nhà chùa một lần nữa tha thiết đăng lại bức "Thư Ngỏ", kính gửi lời đến quý đạo hữu, nhà hảo tâm, Phật tử gần xa để công việc trùng tu sớm được hoàn thành.
19/04/2021(Xem: 11576)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
15/04/2021(Xem: 9437)
Bài viết này (phần B) cập nhật và tóm tắt buổi trình bày về bài viết "Tản mạn về tiếng Việt và Hán Việt: tại sao Trung Quốc dùng danh từ khoái 筷 còn Việt Nam dùng đũa (trợ 箸)?" tại hội thảo UNC2021_0116 tại Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN (sẽ diễn ra vào ngày 24/4/2021). Các trang bên dưới được trích từ các trang của Power Point Presentation, dựa vào bài viết đã đăng và dán lên đây theo dạng word cho dễ đọc hơn.
15/04/2021(Xem: 7268)
Chúng ta thường biết là Vi Diệu Pháp là Tạng của Nguyên Thủy áp dụng tu học ngày nay rất phổ biến. Tạng này cũng nói về Tâm và nghiên cứu sâu rộng. Riêng Đại Thừa thì có Duy Thức Luận cũng tương tự chỉ khác là có 2 thức Mạc Na Thức số 7 và Tạng Thức số 8. Vi Diệu Pháp là do Xá Lợi Phất giảng còn Duy Thức Luận là do Vô Trước Thế Thân giảng, tất cả đều do Bồ Tát mở rộng ra mà thôi và là Luận tức là luận bàn do qui từ nhiều kinh lại và không do Phật giảng. Xá lợi Phất giảng Vi Diệu Pháp do Phật giảng trên cõi trời cho mẹ của Phật còn Vô Trước Thế Thân giảng là do Phật Di Lạc giảng cũng trên cõi trời. Bài viết nầy chủ yếu đưa ra khái luận về Tâm Thức theo hai phái Nguyên Thủy và Đại Thừa dựa vào Phân Tâm Học ngày nay. Chúng ta nghiên cứu trên căn bản tâm lý học về tạng Vi Diệu Pháp và Duy Thức Luận.
15/04/2021(Xem: 7885)
Chẳng bao lâu sau khi được xác định như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, cậu bé Lhamo Thondup được cha mẹ đưa đến tu viện Kumbum để bắt đầu việc rèn luyện tôn giáo sơ khởi và chờ đợi trong khi những chuẩn bị cho chuyến du hành đến Lhasa được thực hiện. Mười tám tháng sau, việc cung nghinh Đức Đạt Lai Lạt Ma mới đã bắt đầu cho cuộc hành trình ba tháng đến thủ đô của quốc gia. Một khi đến đó, ngài sẽ đăng quang như lãnh tụ tinh thần của dân tộc Tây Tạng, và sau hàng năm rèn luyện lâu hơn, ngài cũng là lãnh tụ chính trị của họ. Đúng với dự đoán của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, Đức Đạt Lai Lạt Ma mới cuối cùng sẽ bị áp lực phải lãnh đạo quốc gia của ngài chống lại những đe dọa ngoại tại.
15/04/2021(Xem: 5210)
Năm nay, nhân dân Vương quốc Phật giáo Campuchia sẽ tổ chức Tết Cổ truyền Chôl Chnăm Thmây từ các ngày 14 đến 16 tháng 4 năm 2021, một trong những lễ hội lớn nhất nước, nhằm ngăn chặn sự lây lan đại dịch Covid-19, với khẩu hiệu “Mừng Năm mới tại tư gia” (New Year at Home). Vào lúc 4 giờ sáng ngày 14 tháng 4, đánh dấu sự kết thúc của năm Phật lịch 2564 và bắt đầu Tân niên Phật lịch 2565, Âm lịch ngày 3 tháng 3 năm Tân Sửu. Thiên thần của Tân niên năm nay là Mondea Devy, con gái thứ tư của Kabel Moha Prum.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]