Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Đầu năm đi chùa

02/02/201108:57(Xem: 5685)
05. Đầu năm đi chùa

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
Cư Sĩ Chánh Trực
Toronto, Canada 1999 - PL 2543

Đầu năm đi chùa
đúng theo chánh pháp

Đầu năm đi chùa
đúng theo chánh pháp
Theo thông lệ xưa,
cứ vào dịp Tết,
Nguyên Đán hằng năm,
nhiều người Phật Tử,
cũng như mọi người,
không phải Phật Tử,
thường hay đi chùa,
lễ Phật đầu năm,
hái lộc đầu xuân,
thắp hương khấn vái,
cầu nguyện chư Phật,
chư vị Bồ Tát,
tổ tiên ông bà,
phù hộ độ trì,
năm mới trọn lành,
bình yên vô sự,
tai qua nạn khỏi,
vạn sự kiết tường,
muôn sự hanh thông,
mọi việc như ý.

Đó là truyền thống,
tín ngưỡng lâu đời,
chúng ta giữ gìn,
từ thế hệ này,
sang thế hệ khác,
từ ở trong nước,
ra đến hải ngoại.
Bất cứ nơi nào,
người Việt sinh sống,
trước hay là sau,
sớm hay là muộn,
cũng có cảnh chùa,
cũng có tu viện,
Phật đường Thiền đường,
tịnh thất thiền thất,
đạo tràng tu học,
dựng lên phát triển,
công sức bá tánh,
tịnh tâm tịnh tài,
để cho mọi người,
có nơi lễ Phật,
có nơi tạo phước,
có nơi tưởng niệm,
tổ tiên ông bà,
phát huy văn hóa,
có nơi tĩnh tâm,
sau những tháng ngày,
đấu tranh tranh đấu,
kiếm sống vất vã,
trong suốt cuộc đời,
đầy dẫy khó khăn,
những sự bất trắc,
việc bất như ý,
căng thẳng muộn phiền,
hệ lụy trầm kha,
mất mát vật chất,
cũng như tinh thần,
thăng trầm sóng gió,
quan trọng nhứt là:
có nơi tu học,
thực hành Chánh Pháp,
để đạt mục đích,
giác ngộ giải thoát,
dứt trừ những chuyện,
phiền não khổ đau,
thoát ly sanh tử,
luân hồi nhiều kiếp.

Tuy nhiên như vậy,
con người đạt được,
cuộc đời bình an,
như lời cầu nguyện,
hay không đạt được,
chuyện đó không tùy,
các đấng thiêng liêng,
các vị thần linh,
ngọc hoàng thượng đế,
bất cứ vị nào.
Tại sao như vậy?
Bởi vì sự thực,
thánh thần thiên địa,
các vị thiêng liêng,
nếu là các bậc,
chí công vô tư,
bất tùy phân biệt,
không bao giờ làm,
các chuyện bất công,
thiên vị kỳ thị,
ban cho con người,
những điều van xin,
cầu nguyện khấn vái,
dù là thành khẩn,
đến mức độ nào,
nếu như người đó,
không đáng được nhận,
chẳng đáng được hưởng,
mà lại không ban,
cho bao người khác,
xứng đáng hơn nhiều!

Thực ra đúng là,
tất cả những chuyện,
vui buồn sướng khổ,
hỷ nộ ái ố,
những bước thăng trầm,
của cuộc đời này,
đều tùy thuộc vào,
nghiệp duyên mỗi người,
đều tùy thuộc vào,
phước báu mỗi người,
tạo được từ trước,
cho đến giờ này.
Chẳng hạn như là:
người nhiều phước báu,
cuộc đời của họ,
gặp nhiều may mắn,
gặp đủ thuận duyên,
tai qua nạn khỏi,
chuyện lớn hóa nhỏ,
chuyện nhỏ hóa không,
thường gặp người hiền,
thiện hữu tri thức,
cầu gì cũng được,
ít sóng gió hơn,
ít phiền não hơn,
ít cay đắng hơn,
ít ưu tư hơn,
ít khổ sở hơn,
ít gặp người xấu,
ít gặp hiểm nghèo,
dù họ đang sống,
bất cứ cảnh nào,
bất cứ nơi nào,
cũng vậy mà thôi.

Trái lại nên biết,
những người kém phước,
thường gặp xui xẻo,
gặp sự hiểm nghèo,
thiên tai địa tai,
thủy tai hỏa tai,
gặp người bất thiện,
tổn hữu ác đảng,
sa vào nghịch cảnh,
sóng gió thường xuyên,
khổ sở triền miên,
cầu gì chẳng được,
làm gì chẳng nên,
gia đạo ly tan,
tán gia bại sản,
người thân gặp nạn,
tai họa liên miên.
Những người ít phước,
lao đao lận đận,
khốn khổ như vậy,
bởi vì không biết,
tu nhân tích đức,
không chịu chăm lo,
tu tâm dưỡng tánh,
dù người tuổi già,
hay là tuổi trẻ,
lại còn tiếp tục,
tạo tội tạo nghiệp,
tranh chấp hơn thua,
mua gian bán lận,
bận tâm suy nghĩ,
những chuyện vu khống,
đặt điều cáo gian,
hại người lương thiện,
đòi tiền bồi thường,
vài ba triệu bạc,
giựt hụi quịt nợ,
làm ăn bất chánh,
lường người gạt bạn,
xúi giục mẹ cha,
thưa kiện người ta,
tán gia bại sản,
thân bại danh liệt,
sống dở chết dở,
thiệt là tội nghiệp!

Bởi vậy cho nên,
nhân dịp năm hết,
tết đến hằng năm,
chúng ta cùng nhau,
xét lại cái chuyện,
đi chùa đầu năm,
hay vào dịp khác,
làm sao thực hiện,
cho đúng chánh pháp,
làm sao cho được,
ích lợi thực tế,
có thể giúp đỡ,
cuộc đời hiện tại,
tất cả chúng ta,
chuyển hóa tốt đẹp,
được may mắn hơn,
được an lạc hơn,
được hạnh phúc hơn,
gặp được thiện nhơn,
chỉ đường dẫn lối,
tìm thấy chánh đạo,
biết cách tu tập,
theo đúng chánh pháp,
tu tâm dưỡng tánh,
tránh cảnh chen lấn,
giành giựt hái lộc,
đi chùa đầu năm,
giựt cho bằng được,
trái cam trái quít,
cành hoa nén hương,
để đem về nhà,
gọi là lấy hên,
đồng thời tránh được,
thất vọng não nề,
ngay khi nhận ra,
những người đi chùa,
cũng không khác gì,
những người ngoài đời,
nhiều khi tệ hại,
và nguy hiểm hơn,
cũng như tránh được,
thất vọng nãn lòng,
khi lời cầu nguyện,
không được đáp ứng,
linh nghiệm như ý,
và tránh được cảnh,
mê tín dị đoan,
tiền mất tật mang,
bởi vì tin tưởng,
ông bà thầy bói,
nói bậy nói bạ,
phong thủy địa lý,
hý ngôn đủ thứ,
tự nhận bừa bải,
linh nghiệm như thần,
trúng trăm phần trăm,
vân vân vân vân.

* * *
Trước hết cần biết,
quan niệm đi chùa,
không đúng chánh pháp,
là như thế nào,
nhưng có rất nhiều,
Phật Tử cũng như,
không phải Phật Tử,
hằng năm hằng tháng,
vẫn cứ đi chùa,
theo như cách đó.

1) Theo như tín ngưỡng,
ở trong dân gian,
người ta đi chùa,
van xin khấn vái,
xin xăm xin keo,
xem bói xem tướng,
xem ngày tốt xấu,
quan hôn tang tế,
cầu cơ điểm nhãn,
lên đồng lên cốt,
đốt hình nhân giấy,
đốt giấy vàng bạc,
đô la mỹ kim,
xe hơi nhà lầu,
cầu khẩn thần linh,
thỉnh bùa buôn bán,
tình duyên gia đạo,
thỉnh tượng thần tài,
dâng sớ cầu an,
cúng sao giải hạn.
Những việc làm này,
không thuộc phạm vi,
Phật giáo thuần túy,
nhưng đã từ lâu,
trộn lẫn vào trong,
sinh hoạt chùa chiền,
tạo nhiều ưu phiền,
tạo nhiều nghi kỵ,
xa rời Chánh Pháp,
lạc sang tà đạo,
cần phải chỉnh đốn.
Trong suốt cuộc đời,
năm nào cũng vậy,
chúng ta cũng gặp,
những chuyện may mắn,
vừa ý vui vẻ,
cùng với những chuyện,
kém may không tốt,
khó chịu buồn phiền!
Ngay cả cuộc đời,
các bậc thánh nhân,
các vị giáo chủ,
trên thế gian này,
cũng không ngoại lệ,
có người tán tụng,
tung hô khen ngợi,
bái phục qui ngưỡng,
đồng thời cũng không,
tránh khỏi rắc rối,
phỉ báng mạ lỵ,
vu khống cáo gian.
Thậm chí có vị,
bị bắt bỏ tù,
hay bị xử chết,
một cách thê thảm!
Tại sao như vậy?
Bởi vì dù là
thánh nhân hiền nhân,
bậc đại tu hành,
hay đã đắc đạo,
tất cả đều không,
ra ngoài nhân quả.

Nói một cách khác,
tất cả mọi người,
gây tạo nghiệp nhân,
do thân khẩu ý,
tốt có xấu có,
thiện có ác có,
lành có dử có,
hiền có hung có,
trong vô lượng kiếp,
hay trong kiếp này,
nếu biết ăn năn,
sám hối phát nguyện,
tu tâm dưỡng tánh,
giác ngộ chánh đạo,
giải thoát luân hồi,
tuy nhiên vẫn phải,
cam lòng đền trả,
nghiệp quả đã gieo,
mình làm mình chịu,
thế mới công bằng,
chí công vô tư,
bất tùy phân biệt,
chứ đừng lập đàn,
cầu được bình an,
uổng công vô ích,
đó là quịt nợ!
Khi nào nghiệp quả,
còn gọi nghiệp báo,
hay là quả báo,
đến ngày phải trả,
dù là thánh nhân,
dù là giáo chủ,
giáo phẩm chức sắc,
quyền cao chức trọng,
giàu sang danh vọng,
chí đến thứ dân,
bần cùng cố nông,
cũng không tránh khỏi!

Trong Kinh A Hàm,
Đức Phật có dạy:
Dù có lên non,
xuống biển vào hang,
nghiệp báo đã mang,
vẫn theo con người
như hình với bóng,
không ai có thể
tránh được thoát được.

Người ở thế gian
thường hay thở than:
"trời đã kêu ai,
thì người ấy dạ!",
hoặc là khẳng định
"lưới trời tuy thưa,
mà chưa ai lọt",
chính là nghĩa đó vậy.
Những chuyện vào chùa,
cúng chút tiền lẻ,
hoặc một nén hương,
hay một nãi chuối,
một ít trái cây,
một chút chè xôi,
ôi thôi khấn vái,
hái lộc đầu năm,
tay lắc ống xăm,
mong được quẻ tốt,
tình duyên gia đạo,
thảy đều cát tường,
thường muốn quẻ thượng,
cầu khẩn van xin,
khấn vái thần linh,
cầu cho trúng số,
cầu cho thắng kiện,
cầu cho hơn người,
đấu tranh thắng lợi,
cửu huyền thất tổ,
đều được siêu thăng,
nội ngoại hai bên,
ông bà cha mẹ,
con cháu trong nhà,
bình yên vô sự,
sung sướng tấm thân,
sức khỏe dồi dào,
tai qua nạn khỏi,
thi đâu đậu đó,
được làm quan to,
lúa gạo đầy kho,
giàu sang phú quí,
đem tượng thần tài,
vào chùa điểm nhãn,
cho được linh hiển,
phù hộ làm ăn,
buôn may bán đắt,
một vốn bốn lời,
nhứt bổn vạn lợi,
là những việc làm,
biểu tượng tâm tham,
vô bờ vô bến,
thỏa mãn tâm sân,
như hỏa diệm sơn,
tràn ngập tâm si,
vô minh muôn thuở!
Tham sân si là:
cội nguồn sanh tử,
cần phải dứt trừ,
chính nghĩa đó vậy.

* *
2) Bởi vậy cho nên,
trong Kinh Pháp Cú,
Đức Phật có dạy:
Hãy tự thắp đuốc,
tự mình bước đi.
Thắp sáng trí tuệ,
ngọn đuốc chánh pháp.

Điều đó nghĩa là:
để dẹp trừ dứt,
sinh hoạt mê tín,
hiện tượng dị đoan,
không đúng Chánh Pháp,
những người Phật Tử,
chân chánh phát nguyện,
tu tâm dưỡng tánh,
cầu mong giác ngộ,
chánh đạo giải thoát,
sanh tử luân hồi,
đều cần học hiểu,
thực hành Chánh Pháp,
ngay trong đời sống,
ngay tại thế gian,
tất cả mọi người,
có thể làm được.

Chánh Pháp tại thế gian,
không phải do trời ban,
chính mình phải cầu học,
để có thể áp dụng,
trong đời sống hằng ngày,
chứ không phải là những,
pho kinh điển để thờ,
không thể học hiểu được.

Đức Phật thị hiện,
thế giới ta bà,
giảng kinh thuyết pháp,
giúp đỡ chúng sanh,
thoát ly sanh tử,
phiền não khổ đau.
Tại sao chúng ta,
lại không tìm học,
để đặng áp dụng,
vào trong cuộc sống?

Trong các kinh sách,
chư Tổ có dạy:
Tu mà không học,
đúng là tu mù.
Học mà không tu,
đúng là tủ sách.

Người không phát nguyện,
tu tâm dưỡng tánh,
dĩ nhiên gặp nhiều,
phiền não khổ đau,
mỗi khi nghịch cảnh,
xảy đến thình lình.
Người đã phát tâm,
tu mà không học,
không hiểu Chánh Pháp,
chỉ thực hành suông,
những điều truyền miệng,
người trước làm sao,
người sau làm vậy,
làm sao tránh được,
những điều mê tín,
những chuyện dị đoan,
tam sao thất bổn,
xa rời Chánh Pháp,
gọi là tu mù.
Tam tạng kinh điển,
là do chư Phật,
chư vị Tổ sư,
truyền lại nhiều đời,
há chẳng ích lợi,
gì cả hay sao?
Nếu cứ đọc tụng,
mà vẫn không hiểu,
có thể tìm kiếm,
các vị chân tu,
các bậc tôn đức,
thực học giáo lý,
để xin nương tựa,
để xin chỉ dạy.
Làm được như vậy,
chúng ta tránh khỏi,
những kẻ ngoại nhân,
lợi dụng hình tướng,
tu sĩ Phật giáo,
lẫn lộn vàng thau,
hướng dẫn những điều,
huyễn hoặc huyền bí,
mê tín dị đoan,
xa lìa chánh đạo,
chẳng ích lợi gì!
Những người thu thập,
tam tạng kinh điển,
nghiên cứu từ chương,
tìm phương phô trương,
sở học tri kiến,
cũng chẳng ích lợi,
cho việc thoát ly,
sanh tử luân hồi,
giác ngộ giải thoát,
chỉ là tủ sách,
hay là đãy sách!

Chúng ta không nên,
quan niệm sai lầm,
xem chùa như là,
cái viện dưỡng lão,
dành riêng cho người,
gần đất xa trời,
hay là dành cho,
những người chán đời,
thất bại trên đường,
công danh sự nghiệp,
hoặc là dành cho,
những người chán chê,
tình duyên gia đạo,
ở ngoài thế gian.
Bởi vậy cho nên,
những người phát tâm,
thay đổi hình tướng,
vào tu trong chùa,
bất cứ tuổi nào,
cần nên phát nguyện,
ly thân cắt ái,
dứt bỏ hồng trần,
lìa tam giới gia,
xuất phiền não gia,
tự độ độ tha,
tự giác giác tha,
giác hạnh viên mãn,
cầu học Chánh Pháp,
tu tập tinh tấn,
đến ngày giác ngộ,
thấu rõ biết rành,
cốt tủy đạo Phật,
chứ đừng giải đãi,
tụng kinh ê a,
lóc cóc leng cheng,
như phường hát dạo,
chuyên chú hình thức,
cúng kiến lễ lạy,
cúng sao giải hạn,
quanh năm suốt tháng,
cầu này cầu kia,
vía ông vía bà,
thực là uổng phí,
cả cuộc đời này,
lại còn dẫn dắt,
bao người lầm lạc,
vì tin màu áo,
sa vào tà đạo,
xa rời chánh đạo,
biết đến bao giờ,
quày đầu tỉnh ngộ?

Trong Kinh A Hàm,
Đức Phật có dạy:
Không nên tin ngay,
tất cả những gì,
người xưa đã nói,
tất cả những gì,
người có thế lực,
đạo cũng như đời,
tất cả những gì,
người bề trên nói,
tất cả những gì,
nhiều người tin theo,
có ghi trong sách.
Chỉ nên tin theo,
những gì có thể,
kiểm nghiệm lại được,
đúng với chân lý,
đúng với lẽ thực,
thông qua trí tuệ,
sáng suốt thông minh,
thấy có ích lợi,
cho bản thân mình,
và cho mọi người.
Để tránh sai lầm,
cho chính chúng ta,
không tin mù quáng,
bất cứ lời nào,
do những người có,
thế lực ngoài đời,
cũng như thế lực,
trong các tổ chức,
tôn giáo thế gian,
chúng ta nhứt định,
phải biết suy xét,
tư duy nghiền ngẫm,
đối chiếu so sánh,
với tam tạng kinh,
tạng luật và luận.
Hơn như thế nữa,
ở trong Phật giáo,
có "Tam Tuệ Học",
tức ba môn học,
giúp đỡ con người,
phát sanh trí tuệ,
thông minh sáng suốt,
phân biệt rõ ràng,
chánh đạo tà đạo,
có được chánh kiến
và được chánh tín,
tránh được những điều
mê tín dị đoan.
Ba môn học đó
là: "Văn, Tư, Tu".

Trước hết cần phải,
lắng nghe lời giảng,
của thiện tri thức,
phải học kinh điển,
và những lời dạy,
của chư tôn đức.
Xong rồi sau đó,
chúng ta phải biết,
tư duy quán chiếu,
suy nghĩ nghiền ngẫm,
một cách kỹ lưỡng,
một cách tường tận,
một cách thấu triệt.
Khi nào nhận thấy,
những lời dạy đó,
quả thực đem lại,
an lạc cho mình,
ích lợi cho người,
chúng ta bắt đầu,
tu tập thực hành,
vào trong đời sống,
hằng ngày hằng giờ,
của chính chúng ta.

Chẳng hạn như là:
những lời tiên tri,
về ngày tận thế,
đã từng làm cho,
bao nhiêu con người,
nhẹ dạ dễ tin,
nơi đấng thần quyền,
phải chịu điêu đứng,
tự sát tập thể,
trước năm 2000,
biến động vừa qua.
Chẳng hạn như là:
những chuyện phép lạ,
chữa người tê liệt,
đi đứng lại được,
chữa cho người mù,
thấy được ánh sáng,
đều là những chuyện,
không tưởng hoang đường,
chẳng ích lợi gì,
cho việc phát nguyện,
tu tâm dưỡng tánh,
chỉ đem lợi nhuận,
một cách kếch xù,
cho người lợi dụng,
đức tin mù quáng,
của mọi người khác.
Tại sao như vậy?
Bởi vì nếu thực,
có vị thánh nhân,
cứu cho người chết,
sống trở lại được,
thử hỏi sau này,
nếu như người đó,
lại chết lần nữa,
ai cứu họ đây?
Lần này chết thiệt!
Không sống lại đâu!
Tại sao như vậy?
Bởi vì cái vị,
gọi là thánh nhân,
đã bị người khác,
giết chết mất rồi,
ai mà cứu nổi!

Khi Phật tại thế,
có một thiếu phụ,
khẩn cầu Đức Phật,
cứu sống người con,
mới vừa qua đời.
Đức Phật bèn bảo,
người thiếu phụ đó,
đi xin đem về,
cho được hột cải,
từ gia đình nào,
không bao giờ có,
người đã qua đời.
Dĩ nhiên rõ ràng,
người thiếu phụ đó,
không sao tìm được,
hột cải như vậy.
Bởi vậy cho nên,
người thiếu phụ đó,
liền giác ngộ được,
"lý lẽ vô thường"
của cuộc đời này:
không có cái gì,
ở trên đời này,
tồn tại vĩnh viễn,
không có người nào,
trẻ mãi không già,
sống mãi không chết,
dù cho người đó,
là bất cứ ai,
giàu sang nghèo hèn,
thông minh ngu dốt,
quan chức thường dân,
tu sĩ tín đồ,
da đen da trắng,
da vàng da đỏ,
khỏe mạnh đau yếu,
tất cả cũng đều,
có ngày bắt buộc,
từ giã cuộc đời,
hai bàn tay trắng,
chỉ đem theo được,
cả khối nghiệp báo,
đã gây tạo nên,
trong suốt cuộc đời,
sống trong vô minh,
không biết chánh đạo.
* * *
Tóm lại nên biết,
khi gặp thuận cảnh,
nhiều sự may mắn,
cuộc đời an vui,
chúng ta nên biết,
đang hưởng phước báo,
tiếp tục cố gắng,
tu tâm dưỡng tánh,
tạo thêm phước báu,
tránh xa các việc,
tạo tội tạo nghiệp,
dù trong hành động,
dù trong lời nói,
hay trong ý nghĩ.
Khi gặp nghịch cảnh,
khốn khổ khó khăn,
cuộc đời sóng gió,
chúng ta biết ngay,
mình kém phước báo,
phải trả nghiệp báo,
không thể tránh khỏi,
không thể cầu an,
cho nên quyết chí,
tu tâm dưỡng tánh,
giúp đời giúp người,
làm việc phước thiện,
nhứt định chuyển nghiệp,
chuyển hóa tâm tánh,
tu theo chánh đạo,
từ bi hỷ xả,
bình tĩnh thản nhiên,
trước mọi sóng gió,
của cuộc đời này.

Chúng ta quyết tâm,
từ đây trở đi,
đầu năm đi chùa,
chánh tín lễ Phật ,
mỗi năm một lần,
hay thường xuyên hơn,
mỗi tháng mỗi tuần,
đều với mục đích:
cầu học chánh pháp,
gần gũi bạn đạo,
thảo luận pháp tu,
thọ bát quan trai,
hành thập thiện giới,
trao đổi kinh nghiệm,
đọc kinh đọc sách,
thỉnh băng thuyết pháp,
đem về tu học,
tinh tấn thường xuyên,
nội cần khắc niệm,
tạo được công phu,
ngoại hoằng bất tranh,
tạo nên đức độ,
bên trong tĩnh lặng,
bên ngoài an vui,
cho đến một ngày,
giác ngộ chân lý,
giải thoát phiền não,
chẳng thấy khổ đau,
mặc dù vẫn sống,
ngay tại thế gian,
như bao người khác,
thân tâm tự tại,
an lạc hạnh phúc,
cư trần lạc đạo.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5083)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4102)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4693)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4154)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3600)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6881)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5052)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]