Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Tâm thư

02/02/201108:57(Xem: 5844)
01. Tâm thư

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
Cư Sĩ Chánh Trực
Toronto, Canada 1999 - PL 2543

Tập 03
01 Tâm thư
02 Ái ngữ
03 Cốt tủy của Đạo Phật
04 Chữ tâm trong Đạo Phật
05 Đầu năm đi chùa
06 Dâng sớ cầu an
07 Giá trị của con người
08 Không có, có không
09 Luật Nhân quả
10 Năm người mù rờ voi
11 Phước huệ song tu
12 Thủ ấn của Phật Thích Ca
13 Tu tâm, dưỡng tánh
14 Y nghĩa bất y ngữ
15 Ý nghĩa của cuộc sống
16 Gia đình hòa thuận
17 Tội nghiệp
18 Nhân nào quả nấy
19 Biết mình có phước
20 Tứ nhiếp Pháp
Được chỗ không. Không chỗ được.
Thực tu thực chứng. Vô tu vô chứng.

-ooOoo-

Tâm thanh tịnh
Cư-sĩ Chính-Trực

Ngày mai ai cũng chết
Ngày nay không tranh cãi
Muôn sự không còn mãi
Gắng giữ tâm thanh tịnh

Đóa hoa tươi
Cư-sĩ Chính-Trực

Xin học hạnh của đất
Nhận chịu của thế gian
Thơm tho và hôi thúi
Hóa thành đóa hoa tươi

-ooOoo-

Người không sương gió khó thành công.
Người không khổ đau sao ngộ đạo.
(Cư-sĩ Chính-Trực)

-ooOoo-


Lời Tựa

Người tu học theo Phật thường băn khoăn không biết bắt đầu từ đâu, trước một rừng kinh sách của đạo Phật. Tập sách này trình bày các bước căn bản tu học theo Phật, có thể áp dụng trong đời sống hằng ngày, gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Đạo Phật.

Khi tu học theo Phật, chúng ta thường phát bốn nguyện lớn:

- Một: "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ". Nghĩa là: có rất nhiều loại chúng sanh trong tâm thức, trong tư tưởng, gây nên các tâm niệm sanh diệt, lăng xăn lộn xộn, thương ghét thị phi, cần phải dẹp hết.

- Hai: "Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn". Nghĩa là: có rất nhiều loại phiền não trong tâm thức, trong tư tưởng, gây nên các tâm niệm sanh diệt, sanh tử luân hồi, cần phải đoạn trừ dứt sạch.

- Ba: "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học". Nghĩa là: có rất nhiều pháp môn, hay phương pháp tu tập, để đạt giác ngộ và giải thoát, chúng ta cần thực hành trong việc tu học theo Phật.

- Bốn: "Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành". Nghĩa là: thực hành trọn vẹn được ba điều thệ nguyện trên đây, con đường chuyển hóa tâm thức sanh diệt thành Chân Tâm Phật Tánh nhứt định được thành tựu viên mãn.

Tất cả những lời thệ nguyện lớn trên đây đều qui về một chữ: "TÂM". Dù thực hành theo bất cứ tông phái nào, pháp môn nào, người tu học theo Phật chỉ có một mục đích cứu kính là: hàng phục tâm của mình và an trụ tâm của mình. Nhờ đó được an lạc và hạnh phúc.

Nguyện chánh pháp được phổ biến, nguyện mọi người sống đời được vui đạo, cho nên bài viết trong các tập sách Cư Trần Lạc Đạo được hoan hỷ cúng dường chư Phật Tử mười phương, để tùy nghi xử dụng đem lợi lạc cho mọi người, được phép trích dẫn, in lại, đăng báo, thu băng, phát thanh, từng bài hoặc toàn tập, để phổ biến dưới mọi hình thức, một cách bất vụ lợi.

Kính chúc quí độc giả cư trần lạc đạo.

Toronto, Mùa Hạ An Cư Năm 2002
Cư-sĩ Chính-Trực

Tâm thư
(06-2001)

Kính thưa chư đạo hữu,

Lời nói vốn không có nghĩa cố định, chỉ tạm dùng để truyền đạt tư tưởng của con người. Cho nên để tiến bộ trên đường tu học và cảm thông lẫn nhau, chúng ta nên trao đổi với nhau trong tinh thần "đạt ý quên lời". Nói theo sách vở, đó chính là: "y nghĩa bất y ngữ" vậy.

Trong tinh thần đó, chúng tôi xin phát biểu các điểm sau:

Trong Phật giáo, có nhiều tông phái, nghĩa là có nhiều pháp môn tu tập, thích ứng cho từng căn cơ, theo từng hoàn cảnh, thích hợp với nhu cầu và sở nguyện của mỗi cá nhân, tại gia và xuất gia. Do đó, không thể đem giới luật của một hạng người đem áp dụng cho tất cả mọi người được, không thể áp dụng pháp môn tu tập của một giới này cho một giới khác được. Cách tu tập cũng như giới luật và tâm nguyện của Phật Tử xuất gia, tức là các bậc tôn túc tăng ni, khác với Phật Tử tại gia. Không hiểu điều này một cách rõ ràng, nghiêm túc, các cuộc thảo luận đạo lý, hay học hỏi Phật Pháp, thường đưa đến chỗ hí luận, tranh cãi vô ích, làm mất hòa khí, hay động tâm không tốt.

Trong các cuộc thảo luận đạo lý, hay học hỏi Phật Pháp, người nào mang nặng kiến chấp về một cá nhân hay một vấn đề nào đó, thường không giữ được sự bình tỉnh sáng suốt, cho nên không thấy rõ vấn đề, trong khi bao nhiêu người khác đều thấy rõ, biết rõ. Chẳng hạn như là: một người đi vào một căn phòng, thấy tối om om, bèn la lên: Tại sao căn phòng này thiếu ánh sáng quá vậy? Có người thương hại nói giúp: Bạn bỏ cặp kiếng đen xuống, bạn sẽ thấy căn phòng sáng liền chứ gì!

Cũng vậy, khi đọc một quyển sách, hay một bài viết, nhứt là về Phật Pháp, con người nên có tâm bình thường, bất tùy phân biệt, mới có thể hy vọng thấu hiểu được nội dung của quyển sách hay bài viết, mà tác giả muốn gửi gấm, gói ghém trong đó. Nếu có điều nào, điểm nào, đoạn nào chưa sáng tỏ, hay còn nghi vấn, thắc mắc, cần thảo luận để sửa đổi, bổ túc, hoàn chỉnh, đó là việc nên làm trong tinh thần từ bi của người biết tu tâm dưỡng tánh, tránh sự tranh cãi.

Một câu văn hay một đoạn văn thường chưa đủ diễn tả hết tư tưởng về một vấn đề nào đó, cho nên cần có câu văn hay đoạn văn sau đó bổ túc. Tuyệt đối không nên trích một vài chữ, một vài câu, hoặc một đoạn văn trong một bài viết hay toàn bộ quyển sách, rồi kết luận đó là "đại ý" của tác giả, rồi kết luận một cách vội vàng, hoặc kết án một cách bừa bải. Đó là các việc làm thiếu nghiêm túc và không đúng đắn, về phương diện thế gian, cũng như về phương diện đạo lý. Vô tình làm như vậy con người chỉ thấy được một bộ phận của con voi, không thấy đuợc nguyên hình của con voi, như trong câu chuyện năm người mù rờ voi.

Tùy theo căn cơ và công phu tu tập của mỗi cá nhân, một bộ kinh hay một bài viết về Phật Pháp, thậm chí một pháp môn tu tập, có thể được hiểu một cách khác nhau. Đó là lẽ thường tình, không có gì đáng ngạc nhiên, không cần tranh cãi. Kinh Phật thường có rất nhiều nghĩa, cao thấp tùy trình độ tu học, hiểu biết của mỗi cá nhân, nên được gọi là vô lượng nghĩa.

Người tu tập theo đạo Phật, nên cố gắng thực hành lời dạy: "tâm khẩu nhứt như", mới có thể tiến bộ được. Con người thường hay giữ gìn lời nói một cách khách sáo, một cách hoa mỹ, một cách đẹp đẽ, để tránh mích lòng người nghe. Tuy chưa hoàn toàn đúng chánh pháp, nhưng cũng giúp giữ gìn khẩu nghiệp. Nếu những lời nói như vậy phát xuất từ tâm địa tương ưng thì quí hóa biết là dường nào, đó chính là chuyển được ý nghiệp luôn rồi đó vậy. Đây mới chính là trọng tâm của việc tu tâm dưỡng tánh. Người tu tập có tiến bộ là người càng ngày càng thấy an lạc trong tâm hơn, càng ngày càng thấy mình gần gũi với mọi người hơn, cho nên ngày càng hòa nhã với mọi người chung quanh hơn.

Kính thưa chư đạo hữu,

Chúng tôi vô cùng cảm niệm quí đạo hữu đã góp ý xây dựng trên diễn đàn trong thời gian qua. Chúng tôi thường không trả lời ngay các thắc mắc được nêu lên, bởi các lẽ sau:

Cần thời gian để lắng nghe, xem lại vấn đề, đọc kỹ lại điều mình đã viết, kiểm soát lại tư tưởng của mình.

Cần kiểm soát tâm của chính mình, để khỏi làm động tâm của người khác.

Cần thời gian để câu chuyện lắng dịu, mọi việc được sáng tỏ, mọi người được bình tĩnh, tránh sự tranh cãi vô ích.

Hy vọng những lời bộc bạch trên đây được sự cảm thông và bao dung của chư đạo hữu khắp nơi, không tạo ra một đợt sóng nào khác về các vấn đề đã qua. Quá khứ đã qua rồi, chúng ta nên cho qua luôn và thảo luận các đề tài khác bổ ích hơn cho việc tu học. Được như vậy, chúng tôi vô cùng cảm tạ và thành tâm đãnh lễ chư thiện tri thức bốn phương.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính thư,
Cư-sĩ Chính-Trực





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/07/2014(Xem: 9094)
“Nhân chi sơ –tánh bổn thiện” đó là câu nói bắt nguồn từ cái nhìn hiện thực khi mầm sống của con người được bắt đầu; với Phật giáo, bắt đầu cho mầm sống hiện thực không chỉ là tiếng khóc chào đời mà là một quá trình tích lũy nghiệp thức qua vô số thời gian quá khứ. Mầm sống hiện thực bắt đầu không là “tánh bổn thiện” mà bổn thiện đó là trạng thái “vô ký tánh” khi chủng tử thiện-ác chưa có điều kiện khởi sanh.
27/06/2014(Xem: 14836)
Trăng hạ huyền chếch trên đầu ngọn thông cuối đường. Một mình giữa đêm. Trụ đèn kiên nhẫn đứng thẳng và im lặng; bên cạnh cây bạch đàn cao ngất đang lao xao trước gió. Đèn vàng lay lắt tỏa bóng trong màn sương. Màu bông giấy đỏ rực dưới nắng mai, giờ trở nên tím sẫm. Con mèo lầm lũi, bước nhẹ trên mái nhà ai. Hoa một đóa, nở trong vườn đêm tịch mịch. Mùi cỏ dại phảng phất đâu đây. Trong phút giây bỗng thấy đời thênh thang, vô cùng.
23/06/2014(Xem: 8117)
Lễ kỉ niệm 7 năm phát triển của Thaihabooks nhân đôi niềm hoan hỷ với buổi giao lưu giữa Thầy Chân Pháp Đăng và các độc giả Phật tử về cuốn sách “ Trị liệu ung thư bằng chính niệm” vào lúc 13h ngày 20/6/2014, tại nhà Sách Thái Hà, số 119C5 Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, Cầu Giấy.
23/06/2014(Xem: 15818)
"Thiền tông Việt Nam luôn là mạch sống tuôn chảy trong lòng Phật giáo và dân tộc suốt từ thế kỷ VI đến nay. Có lúc mạnh mẽ tuôn tràn giữa ngàn hoa đô hội, có lúc len lỏi âm thầm trong núi sâu, rừng thẳm, ung dung thoát tục, khuất tịch tiêu sái. Tuy nhiên, mạch sống Thiền xưa nay vẫn như vậy: Không đến không đi mà là dòng sinh mệnh muôn thuở của những bậc thức tâm đạt bổn.
21/06/2014(Xem: 10180)
Chúng tôi, Nhóm Học Phật chùa Quang Nghiêm, gồm một số thân hữu và những huynh trưởng Gia Đình Phật Tử trong vùng có cơ duyên gần gũi và học hỏi cùng thầy trong nhiều năm qua. Nhân đó, chúng tôi được biết, Thầy là một cây viết thường xuyên trên tập san: THEO DẤU CHÂN XƯA của Phật học viện Huệ Nghiêm, SÀI GÒN trước 1975. Nhưng sau những đợt đốt sách của chính quyền Cộng Sản, THEO DẤU CHÂN XƯA không còn nữa. Càng gần Thầy, chúng tôi nhận thấy những gì Thầy dạy và viết thật thực tế và giản dị trong việc áp dụng Đạo Phật vào đời sống hằng ngày cho chúng ta. Chúng tôi không muốn có sự thất thoát như xưa, nên mạo muội sưu tập một số bài mà Thầy đã viết trong thời gian qua. Đây là một món quà tinh thần của Thầy mà chúng tôi đã rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hàng ngày. Có một điều quan trọng nữa là bài học thân giáo của Thầy: phong cách hiền hòa và đức độ lan tỏa từ Thầy êm đềm như dòng sông Thu Bồn xứ Quảng. Trong bất cứ lúc nào, nếu có dịp, Thầy thường nhắc nhở: “Học Phật có n
19/06/2014(Xem: 14611)
Hoài bảo một "CÁI MỘNG" trên 25 năm mới hoàn toàn thực hiện Trong lúc du học ở Xuân Kinh(1938), đến mùa hè năm 1941, tôi được dịp may dự thính lớp Giáo Lý của Đoàn Thanh Niên Dục Đức, trong một tháng (mỗi đêm giảng 2 giờ) , do Bác sĩ Lê Đình Thám đảm trách (lớp này hiện nay còn Thượng Toạ Thích Minh Châu và Đạo hữu Võ Đình Cường v.v...) Tôi thích thú quá! Vì thấy bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình bày một triết lý cao siêu của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á làm cho người nghe rất thích thú vì hiểu được rằng triết lý cao siêu của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng rành mạch của Tây phương. Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
09/06/2014(Xem: 19658)
Một lòng giữ niệm Di Đà, Hồng danh sáu chữ thật là rất cao, Năng trừ tám vạn trần lao, Người đời nên sớm hồi đầu mới hay. Khuyên ai xin chớ mê say, Tịnh tâm niệm Phật việc gì cũng an, Niệm Phật tội nghiệp tiêu tan, Muôn tai ngàn họa khỏi mang vào mình.
08/06/2014(Xem: 7001)
Buổi sáng sớm đầu xuân, tôi theo Scott đi thăm chi hội Phật tử tại nhà tù tiểu bang (Prison Sangha). Từ xa lộ cao tốc hiện đại, lấy lối rẽ vào con đường nhỏ xuyên qua cánh rừng thông cao dày, một nhà tù khổng lồ giữa cánh đồng mênh mông trống vắng sừng sững hiện ra.
08/06/2014(Xem: 20368)
Chữ Đạo, là tiếng Trung Hoa,dịch ra Việt ngữ là con đường.Con đường được có hai loại : Có hình tướng,không hình tướng. Có hình tướng (hữu vi tướng),là đường trên mặt đất như những con đường mòn trên núi, trong làng,đường quốc lộ từ tỉnh này qua tỉnh khác,gọi là đường cái quang. Đường để cho người đi,xe chạy trên đó và đường sắt( xe lửa ).Cũng có đường dưới mặt đất,gọi là địa đạo.Địa đạo có hai loại : đường xe lửa ngầm (Subway) và đường hầm.Những con đường sau đây ,cũng thuộc về hữu tướng;như:đường công danh, đường đời, đường khổ, đường sanh mạng, đường song song, đường chân trời, đường hàng không, đường cùng, đường xích đạo,v.v…Những con đường có tướng cũng có hai: Bằng phẳng và khúc khuỷu, ổ gà, ghồ ghề.
06/06/2014(Xem: 14456)
Đây là quyển sách do chúng tôi biên soạn, gồm những bài viết rời rạc. Mỗi bài, có mỗi đề tài khác nhau. Mục đích là nhằm giúp cho quý liên hữu ở đạo tràng Quang Minh tu học. Những bài viết gồm có: 1. Vài nét về quá trình sinh hoạt Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh Đạo Tràng. 2. Một đạo tràng lý tưởng. 3. Đối chiếu sự dị đồng giữa Ta bà và Cực lạc. 4. Cẩm nang tu tập (đặc biệt dành cho khóa tu ). Những tài liệu nầy trong thời gian qua, chúng tôi đã lần lượt đem ra trình bày hướng dẫn cho đạo tràng tu học. Với thâm ý của chúng tôi, là muốn cho mỗi liên hữu hiểu rõ thêm về đường lối tu tập, cũng như những lễ nghi hành trì cho đúng phương pháp mà Phật Tổ đã chỉ dạy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]