Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Qua cơn mê

02/02/201108:57(Xem: 5595)
11. Qua cơn mê

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
Cư Sĩ Chánh Trực
Toronto, Canada 1999 - PL 2543


Qua cơn mê

Trong cuộc sống hằng ngày, tất cả mọi người, từ tấm bé cho đến khi trưởng thành, đều phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Lúc còn nhỏ, chúng ta chỉ biết ăn cho no, ngủ cho đã, chơi cho sướng, còn mọi chuyện khác, có người lớn lo. Lớn lên một chút, chúng ta được cha mẹ cho đến trường để học. Ở quê nhà, trước đây, chúng ta được học lễ giáo, trước khi học chữ nghĩa. Chắc chúng ta ai cũng còn nhớ câu: "Tiên học lễ hậu học văn". Còn ở hải ngoại, học sinh được dạy dỗ nhiều về trí dục và thể dục, phần đức dục có phần khiếm khuyết, có nơi hầu như không có!

Sau khi tốt nghiệp, tiểu học trung học, hoặc là đại học, cũng có những người, kém may mắn hơn, chưa kịp học xong, tất cả mọi người, đều phải bước qua, ngưỡng cửa cuộc đời. Có người bước được, những bước chắc chắn, vững chải tốt đẹp, thành công tốt đẹp, vui vẻ hạnh phúc. Dưới góc cạnh cuộc đời, trong con mắt thế gian, người ta thường cho rằng: đó là những người "có tài". Dưới cái nhìn trong nhà đạo, đó là những người "có phước". Cũng có nhiều người, bước đi những bước, loạng quạng vào đời, có khi vấp ngã, thiệt thòi thương đau, người đời gọi là "bất tài", hay là "vô phước"!

Dù có tài hay có phước, dù bất tài hay vô phước, sau sáu mươi năm cuộc đời, người sống lâu hơn, hơn kém trăm năm, người ta bắt đầu, cảm thấy mệt mỏi, tuổi già sức yếu, lưng còm gối mỏi, da dẻ nhăn nheo, bệnh hoạn triền miên, cuối cùng thì sao, kết thúc thế nào? Ít người có thời gian, có can đảm, chịu suy nghĩ về ngày cuối cùng của cuộc đời mình. Một nấm mồ với tấm mộ bia, hay một cái hủ đựng xương cốt với tấm biển đồng, khắc ghi tên họ, bằng cấp chức tước, là cái phước cuối cùng, con người có thể hưởng, lúc cuối đời! Thế là xong hết! Xong hết thiệt rồi! Một đời đã qua! Người nào cũng vậy! Đời nào cũng vậy! Nơi nào cũng vậy! Thánh phàm cũng vậy!

* * *

Trên thế gian này, từ ngàn xưa cho đến ngày nay, tất cả mọi người sinh ra trên quả địa cầu này đều chấp nhận diễn tiến, tuần tự của cuộc đời mình như vậy, sinh lão bệnh tử, không ai nghĩ là có thể làm bất cứ điều gì khác hơn được. Cho nên, trong cuộc sống hằng ngày, con người thường đấu tranh, giành giựt, để được phần thắng, phần lợi, phần tốt, phần hơn, phần phải về phía mình, gia đình mình. Còn phần thua, phần thiệt, phần xấu, phần lỗ, phần quấy, dành cho mọi người, họ có ra sao cũng mặc kệ, chẳng có gì quan trọng, chẳng có điều gì đáng quan tâm, miễn sao, mình và gia đình mình vui sướng là được rồi! Con người thường suy nghĩ đơn giản như vậy. Đến khi nào chính mình gặp khổ nạn, bất trắc, tai họa, nguy biến, phiền não, hệ lụy, con người bèn la hoảng lên, than trời trách đất, kêu gào thảm thiết, van xin cầu khẩn, thánh thần thiên địa, phù hộ độ trì, cứu tai cứu khổ, ban ơn ban phước, cho mình đều được, tai qua nạn khỏi, hết chuyện xui xẻo, qua cơn khốn khó. Khi qua được rồi, cuộc đời con người lại trôi nổi bềnh bồng, lại tiếp tục đấu tranh giành giựt, không cần biết ngày sau mình sẽ ra sao!

Trong cuộc sống hằng ngày, để được sống còn, để được sung sướng, để được hưởng thụ, dù quan niệm "đời hãy còn dài", hoặc suy nghĩ "đời quá ngắn ngủi", con người sẵn sàng làm bất cứ điều gì, lợi mình hại người, không cần đếm xỉa đến quyền lợi, danh dự, sự nghiệp, đời sống và gia đình của người khác. Nhứt là đối với những người mình không ưa, và những người không ưa mình, hoặc những kẻ oán thù, con người thường mang tâm niệm muốn cho họ biến mất trên thế gian này, càng sớm càng tốt, cho khuất mắt mình. Con người sẵn sàng, làm đủ thứ chuyện, đủ mọi thủ đoạn, mưu sâu kế hiểm, nghe lời xúi bảo, thưa gởi kiện tụng, vu oan giá họa, để hại người đời, làm cho người khác, thân bại danh liệt, suy sụp nguy khốn, gia đình tan nát, phiền não khổ đau, họ mới hả dạ, họ mới vui lòng!

Lòng tham lam của con người vô cùng vô tận, được một đòi mười, được mười đòi trăm, được trăm đòi triệu, một vốn bốn lời, nhứt bổn vạn lợi, được voi đòi tiên, được tiên đòi tiền, được tiền đòi danh, được danh đòi thọ, trường sinh bất tử, cải lão hoàn đồng, không muốn chết uổng.

Than ôi, tâm địa người đời, thực khó mà hiểu, thấu cho cùng được!

Tục ngữ có câu: "Dò sông dò biển dễ dò. Đố ai lấy thước mà đo lòng người".

Lòng sân hận của con người vô lượng vô biên, cao ngất trời xanh, một điều không vừa ý có thể đòi lấy mạng người, hay đòi hủy hoại danh dự và đời sống người khác, hoặc muốn cho người khác ở tù chung thân! Người nào không chịu giúp mình, như mình mong muốn, dù gian hay ngay, mình phải ra tay, hãm hại họ trước, bằng đủ mọi cách, không hề từ nan, nộp đơn thưa kiện, vu khống cáo gian, đặt điều thêm bớt, làm đủ thứ chuyện, miễn sao người đó, khốn nạn điêu linh, tán gia bại sản, sống khổ không yên, thiệt mới hả dạ!

Lòng si mê của con người vô bờ vô bến, những chuyện hiểm nguy, tàn ác vô nhân, cũng đều dám làm, những lời độc hại, có thể giết người, hãm hại người khác, cũng đều dám nói, mưu sâu kế độc, tinh vi khôn lường, tàn bạo dã man, thỏa lòng tự ái, cũng đều dám nghĩ! Khi mình gặp nạn, bởi tâm si mê, nhứt định trả thù, mong muốn người khác, nhứt là kẻ thù, cũng phải khốn khổ, khốn nạn như mình, hoặc khổ hơn mình, thiệt mới hài lòng!

Những hành động do tâm tham lam, những lời nói do tâm sân hận, những ý nghĩ do tâm si mê thúc đẩy, quả thực đã tạo ra, không biết bao nhiêu, tội lỗi nghiệp báo, khiến cho con người, xô nhau đẩy nhau, chìm đắm trong biển, phiền não khổ đau, trầm luân sinh tử, đền trả quả báo, trong bao nhiêu kiếp, không bao giờ dứt, không thoát ra được. Vì thế cho nên, chư Phật Bồ Tát, chư hiền thánh Tăng, vì lòng từ bi, xuất hiện trên đời, để giúp chúng sanh, tự mình biết rằng, đang sống trong mê, sống trong điên đảo, sống trong mộng tưởng, đến khi lìa đời, con đường trước mặt, mờ mờ mịt mịt, không biết về đâu, đâm ra hoảng hốt, sợ hãi khủng khiếp, thì đã quá muộn!

* Tổ Sư Qui Sơn có dạy: "Tiền lộ mang mang vị tri hà vãng", chính là nghĩa đó vậy. Người nào thức tỉnh, giác ngộ như vậy, xa hẳn cơn mê, điên đảo mộng tưởng, không còn tạo nghiệp, tức là đạt được, cứu kính niết bàn, mà thập phương tam thế chư Phật hằng tâm nguyện chỉ bày cho tất cả chúng sanh.

* * *

A. Trong cơn mê : Có thể nói rằng: hầu hết mọi người, khi được sinh ra, trên trái đất này, đều không biết mình, từ đâu đến đây, đến để làm gì, sau khi từ giả, sẽ đi về đâu? Con người chỉ biết, cuộc đời hiện tại, cho nên cảm thấy, mấy mươi năm sống, ở trên thế gian, quả là dài lắm, tưởng chừng mọi việc, đều như vậy mãi, không hề thay đổi, không có nổi trôi. Đến khi về già, nhìn lại cuộc đời, tưởng là giấc mơ, nhưng mà quả đúng, thực là cơn mê.

Khi gặp hoạn nạn, phiền não khổ đau, khó khăn trắc trở, con người cầu mong, mọi chuyện xui xẻo, trôi qua cho mau. Khi gặp an ổn, dễ dàng sung sướng, suôn sẻ vui vẻ, con người cầu mong, cuộc đời mãi mãi, cứ y như vậy. Đến khi những chuyện, bất trắc bất thường, bất như ý muốn, xảy đến cho mình, người đời đau khổ, vì những mất mát, vật chất tinh thần. Chẳng hạn như là: buôn bán thua lỗ, mất tiền mất của, mất nhà mất xe, mất việc làm tốt, đưa đến quẩn trí, mắc bệnh tâm thần, có thể mất mạng! Chẳng hạn như là: người thân qua đời, từ giả ra đi, qua thế giới khác, chúng ta đau khổ. Chẳng hạn như là: người thân ngỏ ý, từ giả ra đi, lập cuộc sống khác, chúng ta phiền não, cảm thấy chới với, không còn muốn sống, cảm thấy cuộc đời, chỉ toàn màu đen, đen thủi đen thui, tối thủi tối thui!

Con người không biết rằng cuộc đời hiện tại này chỉ là một đoạn, một mắc xích trong chuỗi dài sinh tử luân hồi, nhiều đời nhiều kiếp. Cuộc đời hiện tại chỉ là một dòng chuyển biến không ngừng. Sau cơn mưa, trời lại sáng. Hết cơn bỉ cực, tới hồi thới lai. Trăng tròn rồi khuyết. Bèo hợp rồi tan. Hoa nở rồi tan. Cuộc đời dâu biển. Không có cái gì tồn tại vĩnh viễn. Không có việc gì kéo dài vĩnh cửu. Mọi sự mọi việc, mọi vật mọi thứ, trên thế gian này, thay đổi đổi thay, liên tục liên miên, trong từng sát na, từng giây từng phút, từng giờ từng ngày, từng tháng từng năm. Chẳng hạn như là: cái tấm thân này, nay khỏe mai đau, nay trẻ mai già, nay còn mai mất. Chẳng hạn như là: chính tâm tính mình, nay vui mai buồn, nay an mai động, nay thiện mai ác, nay ác mai thiện, thường xuyên thay đổi. Con người không ai có khả năng, cũng như không vị giáo chủ nào có thể, dừng được bánh xe thời gian!

Con người chỉ có thể dùng trí tuệ bát nhã, dừng bánh xe luân hồi nghiệp báo, nếu muốn, nếu giác ngộ. Nghĩa là chỉ khi nào thức tỉnh, vượt qua cơn mê, con người mới hiểu được: tại sao mình phải ngưng làm những việc bất thiện, tại sao mình phải ngưng nói những lời thô ác, tại sao mình phải ngưng suy nghĩ những điều lợi mình hại người! Còn trong cơn mê, những việc bất thiện dễ làm hơn những điều thiện, những lời thô ác dễ nói hơn những lời êm dịu ngọt ngào, những điều lợi mình hại người dễ suy nghĩ hơn những điều vị tha, vì ích lợi của người khác.

Trong cơn mê, con người sẵn sàng nhảy vào căn nhà lửa, mà cứ tưởng là đang vui hưởng ngũ dục. Căn nhà lửa chính là cái thân tứ đại của mình, đang bị lửa thời gian thiêu đốt, từng giây từng phút, bị lửa tham lam, lửa sân hận, lửa si mê, thiêu đốt qua từng cơn, qua từng cơn mê. Căn nhà lửa cũng chính là cái thế giới đầy dẩy những cám dỗ, những cạm bẫy hiểm nguy vô cùng. Con người luôn luôn mơ ước thụ hưởng ngũ dục thế gian gồm có: tài, sắc, danh, thực, thùy. Con người luôn luôn mơ ước lắm của nhiều tiền, trúng số độc đắc, nhà cao cửa rộng, xe cộ đắt tiền. Con người luôn luôn mơ ước được sắc đẹp mỹ miều, trẻ mãi không già. Ai khen mình trẻ đẹp thì thích. Ai nói sự thực thì mích lòng mình. Con người luôn luôn mơ ước được danh tiếng lẫy lừng, nhiều người biết đến, vỗ ngực xưng tên, nhưng lại chẳng tài cán chi. Con người luôn luôn mơ ước được ăn ngon mặc đẹp, sơn hào hải vị, không ngại giết hại, mạng sống sinh vật, bằng đủ mọi cách, để được ăn ngon. Con người luôn luôn mơ ước được ngủ nghỉ thoải mái, giường cao nệm tốt, đầy đủ tiện nghi.

Không được thỏa mãn ngũ dục, con người luôn luôn tìm đủ mọi cách, để đoạt cho bằng được, bất chấp mọi thủ đoạn, dù phải hại người hại vật cũng chẳng ngại, dù phải chà đạp người khác để hưởng lợi hay để bước lên đài danh vọng, dù phải khen mình khinh người cũng chẳng sao, dù phải nhận người khác xuống bùn đen cũng thấy thích thú. Chỉ vì ngũ dục mà con người tạo không biết bao nhiêu là tội nghiệp, để rồi phải đền trả quả báo sau này, bởi vì trong cơn mê, mình không hay biết đó thôi.

Trong cơn mê, con người tưởng rằng tấm thân tứ đại là "mình", quanh năm suốt tháng, làm lụng vất vã, thức khuya dậy sớm, không từ bất cứ việc gì, miễn là cung phụng cho tấm thân được no ấm, sung sướng mà thôi. Bởi vậy bất cứ ai động đến tấm thân này, con người đều cảm thấy khổ đau, cảm thấy bị chạm tự ái, cho nên phải trả thù, phải hại người khác, dù mười năm sau cũng chẳng muộn! Cho đến lúc thở hơi ra, mà chẳng có khả năng hít hơi khác vào, con người mới biết tấm thân tứ đại này phải trở về với cát bụi, phải xuống nấm mồ hay phải vào lò thiêu. Lúc đó, con người mới nhận biết được: tấm thân tứ đại này không phải là "mình" thì đã quá muộn màng! Biết bao nhiêu tội nghiệp đã tạo trong đời, để rồi phải đền trả quả báo sau này, bởi vì trong cơn mê, mình không hay biết đó thôi.

Trong cơn mê, con người tưởng rằng cái tâm suy nghĩ lăng xăng lộn xộn là "mình". Bởi vậy khi tâm tham nổi lên, con người liền theo, bất chấp thủ đoạn để thỏa mãn lòng tham, khi tâm sân nổi lên, con người liền theo, bất chấp nhân nghĩa để thỏa mãn lòng sân, khi tâm si nổi lên, con người liền theo, bất chấp lý lẽ để thỏa mãn lòng si. Cho nên con người tạo không biết bao nhiêu là tội nghiệp, để rồi phải đền trả quả báo sau này, bởi vì trong cơn mê, mình không hay biết đó thôi. Con người suốt đời cứ bị cái vọng tâm lăng xăng lộn xộn sai khiến, điều khiển, quên mất cái bản tâm thanh tịnh sẵn có từ lâu, ít ra cũng từ khi lọt lòng mẹ. Sách có câu: "Nhân chi sơ tánh bổn thiện".

Trong cơn mê, những khi gặp hoạn nạn, con người bực tức, thù hận cuộc đời, chán ghét người khác, sẵn sàng trả thù, sẵn sàng gây đau khổ cho bất cứ ai, mà con người có thể làm được, để thỏa mãn tâm sân hận và si mê. Con người thường không hiểu tại sao tai nạn xảy đến cho mình, không hiểu tại sao có người đến chửi mắng mình, làm nhục mình, không hiểu tại sao người thân từ giả, bỏ mình ra đi! Hằng ngàn hằng muôn câu hỏi "tại sao" những chuyện như vậy, xảy ra thường xuyên, trong cuộc đời mình?

Con người không bao giờ chịu đáp lại bằng câu trả lời: "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!". Hoặc ít ra cũng suy nghĩ được rằng: "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi một phần! ". Thông thường con người nghĩ rằng tất cả đều do lỗi của người khác, lỗi của ai đâu không, tại người này thế này, tại người kia thế khác, không có tại mình, chút xíu nào cả, thậm chí có lúc bực quá, con người la lên: "Tại ông trời đó! ".

Con người gặp tai nạn là do kém phước báu, và do con người đã gieo nghiệp nhân không tốt, trong kiếp trước hay kiếp này. Kiếp trước làm gì không tốt, con người chưa có tu chứng nên không thể biết được. Kiếp này tai nạn xảy ra, do con người có một phần bất cẩn trọng. Nếu không có nghiệp nhân xấu, không thể có nghiệp quả tự nhiên xấu được. Hãy thử suy nghĩ: tại sao tai nạn không xảy ra cho người này, người khác, mà lại xảy ra cho mình? Chuyện xui xẻo không xảy ra cho người khác, tại sao lại đến với mình? Không chịu suy nghĩ, không hiểu như vậy, con người sẽ hết sức tức giận kẻ gây ra tai nạn cho mình, kẻ gây ra phiền toái cho mình, kẻ gây ra thương tích cho mình, kẻ đã làm khổ làm nhục mình.

Không thấu hiểu được như vậy, con người sẽ đòi hỏi sự bồi thường quá mức, do lòng tham lam của chính mình và lòng tham lam của những người chung quanh, hay trong gia đình, thúc đẩy sai kiến, bất chấp mọi thủ đoạn, mọi mưu kế, hại bất cứ người nào liên can, miễn đoạt được lợi! Nghĩa là con người lại tiếp tục tạo tội nghiệp, gây quả báo cho đời sau, cho kiếp sau, tiếp tục trầm luân, trong lục đạo sinh tử luân hồi, không biết đến bao giờ mới dứt! Bánh xe luân hồi nghiệp báo chỉ dừng, không tiếp tục quay, khi con người qua cơn mê mà thôi. Tỉnh người sau cơn mê, nghĩa là con người đã giác ngộ, sau đó sẽ được giải thoát khỏi vòng trầm luân sinh tử luân hồi vậy.

Có câu chuyện sau đây để chúng ta cùng nhau suy gẫm: Có hai vị thiền sư đi qua sông, gặp một chiếc thuyền chài đang lưới cá. Mẻ lưới đầy ắp cá đang được kéo lên thuyền. Có một con cá ra sức vùng vẫy, nhảy thoát khỏi lưới, rớt trở lại sông, bơi lội tung tăng, có vẻ mừng rở, vì mới thoát nạn. Vị thiền sư thứ nhứt nói: Con cá giỏi thiệt, chỉ phóng một cái, thoát ra khỏi lưới! Vị thiền sư thứ hai bèn nói: Nếu con cá giỏi thiệt, sao lại để bị lưới?

Cũng vậy, con người thường bị lưới tình cảm, lưới tiền tài, lưới danh vọng, lưới sắc đẹp, lưới ăn ngủ, nói chung là lưới ngũ dục của thế gian, vây chặt, xiết chặt, nhưng có mấy ai muốn thoát ra khỏi đâu? Con người vẫy vùng bơi lội trong màn lưới mê mờ đó, từ lúc còn bé thơ cho đến khi thành người lớn, lại lấy làm thỏa thích vô cùng. Đến khi tuổi già sức yếu, nhiều người vẫn chưa có phước duyên thức tỉnh, vẫn tiếp tục bơi lội trong lưới, không ngại tróc vẩy trầy vi, bám lấy tiền bạc, danh vọng địa vị, cho đến hơi thở cuối cùng! Những người thức tỉnh, giác ngộ, đều hết sức cố gắng, nhảy một cái ra khỏi lưới, không được thì cố gắng lần thứ hai, thứ ba, cho đến khi nào, được giải thoát mới thôi. Lúc được giải thoát, tức là lúc thoát ra khỏi lưới, con người đã qua được cơn mê, đến bờ giác ngộ.

Nghĩa là trong cơn mê, bất chợt lúc nào đó, thấy được cảnh trần khổ đau phiền não, chẳng hạn như người thân qua đời, con người liền giựt mình thức tỉnh, hiểu rằng cuộc đời vui ít khổ nhiều, không phải "đời còn dài" như mình mộng tưởng, mình có thể ra đi bất cứ lúc nào, bất cứ cách nào, bất cứ nơi đâu. Cho nên con người liền quay đầu hướng thiện, xa lánh những cuộc vui giả tạm của cuộc đời, xa lánh những bạn ăn nhậu đua đòi ngày trước, xa lánh những cuộc tranh chấp, xa lánh những chốn bụi trần, xa lánh những nơi ồn ào náo nhiệt, tìm nơi thanh tịnh, tìm gặp thiện hữu tri thức, để gặp Chánh Pháp, để thấy Chánh Đạo, để bắt đầu tu tâm dưỡng tánh, để cuối cùng qua được cơn mê ngàn đời!

Con người thường hay nằm mơ. Cơn mơ có thể là các giấc mơ đẹp, có hoa có bướm, trời cao mây xanh, gió mát hiu hiu. Cơn mơ cũng có thể là các cơn ác mộng, các giấc mơ hãi hùng, các giấc mộng ghê sợ. Lúc đó mình sẽ ú ớ la hét, tay chân quờ quạng, nhưng không tỉnh được. Trong cơn mơ, chuyện gì xảy ra, mình đều cho là thực. Nếu có người bên cạnh đánh thức mình dậy, thì hay biết mấy. Cũng vậy, hiện nay, chúng ta đang sống trong cơn mê ngàn đời, chúng ta đang sống trong điên đảo mộng tưởng, nếu có người đánh mình thực đau, giúp mình thức tỉnh, thì hay biết mấy. Người này có thể là người ơn, giúp đỡ mình hiểu được đạo lý, chỉ dẫn mình đường lối tu tâm dưỡng tánh. Người này cũng có thể là kẻ thù người oán, luôn luôn hại mình, làm mình điêu đứng, khốn khổ triền miên, hết làm chuyện này, đến gây chuyện khác.

Trong kinh sách, hai hạng người này đều được gọi là thiện hữu tri thức. Hạng người trước, ví như thầy lành bạn tốt, chỉ dạy, giúp đỡ mình tận tâm, tận sức tận tình, trên mọi phương diện, được gọi là bồ tát thuận hạnh, chuyên tạo thuận cảnh, giúp đỡ người tu học. Hạng người thứ hai, ví như giám khảo, hạch hỏi, tra xét, cật vấn, để chứng nhận mình đang ở trình độ tu học nào, tiến bộ ra sao, có đạt gì không, được gọi là bồ tát nghịch hạnh, chuyên tạo nghịch cảnh, giúp đỡ người tu học tiến bộ nhanh hơn.

* * *

B. Sau cơn mê : Người đã từng ngụp lặn trong biển mê, có nhiều phước duyên, gặp được minh sư, gặp được Chánh Pháp, ví như được phao, giựt mình thức tỉnh, cảm thấy từ lâu mình đã phí phạm cả quãng đời trong cơn mê, bèn hạ quyết tâm, tu tâm dưỡng tánh, tìm ra đường đạo, nếm được thiền vị giác ngộ, giải thoát khỏi sự trói buộc của dục lạc thế gian, cuộc sống được an lạc và hạnh phúc. Sau cơn mê, con người được tâm khinh an, không còn lo âu, sợ hãi phập phồng, thấp tha thấp thỏm, nếm được thiền vị giải thoát, không còn tâm tham, không còn tâm sân, không còn tâm si, xa lìa hết thảy, điên đảo mộng tưởng.

Sau cơn mê, con người không còn suy nghĩ đến chuyện trả thù, tâm từ bi hỷ xả phát triển cao tột, con người cảm thấy chúng sanh đau khổ, cũng như mình đau khổ, không khác. Sau cơn mê, con người không còn suy nghĩ đến lỗi lầm, hay tội lỗi của người khác, không quan tâm đến quá khứ của người khác, luôn luôn quán xét tự tâm, luôn luôn quan tâm đến những gì mình đang làm, đang nói, đang nghĩ mà thôi. Người đã thức tỉnh, đã biết chuyển hóa, trở thành người tốt, tự lâu lắm rồi, mình chẳng hay biết, còn mình thì sao, có gì tốt chăng, có gì hay chăng, đã biết dừng nghiệp, chuyển nghiệp hay chưa?

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:

"Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng.
Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan".

Sau cơn mê, con người không còn ham thích những bửa ăn ngon miệng, trên sự đau khổ của chúng sanh, không còn thích tìm giết những con vật sống, để thỏa mãn cái khẩu vị, như lúc còn trong cơn mê. Tại sao vậy? Bởi vì trong cơn mê, con người không hiểu được các sinh vật có thể là người thân, từ nhiều đời nhiều kiếp của mình, vì tạo nhiều nghiệp báo trong cơn mê, cho nên phải đọa lạc vào đường súc sinh, phải mang lông đội sừng, phải mang vi mang vẩy. Những sinh vật đó cũng biết đau đớn, biết sợ hãi, biết chạy trốn, khi bị rượt đuổi, bắt giết làm thịt.

Sau cơn mê, con người không còn bị tâm lăng xăng lộn xộn, tâm tham lam dụ dẫn, tâm sân hận xui khiến, tâm si mê lôi kéo, bởi vì con người đã thức tỉnh, đã có trí tuệ bát nhã, đã nhìn muôn sự mọi việc, đúng như thực tướng, không còn mơ mộng viễn vông, không còn điên đảo mộng tưởng. Sau cơn mê, con người đã hiểu tại sao mình phải tu tâm dưỡng tánh, tại sao mình phải nhẫn nhịn, tại sao mình phải từ bi hỷ xả. Bởi vì không có gì quí hơn sự bình yên trong tâm hồn! Sống an lạc và hạnh phúc, được giác ngộ và giải thoát là mục đích cứu kính của người theo đạo Phật, mặc dù trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta vẫn phải tiếp xúc với cuộc đời, vẫn gặp những điều bất trắc, những cảnh ngộ bất như ý. Qua cơn mê, mọi việc không còn thành vấn đề!

Trong kinh A Hàm, đức Phật có dạy "Thập nhị nhân duyên", gồm có mười hai nhân duyên phát sinh muôn sự muôn việc, đó là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, tử. Thập nhị nhân duyên là giáo lý giảng dạy nguyên nhân nào sự việc này sinh khởi, sự việc này sinh khởi đều có quan hệ với sự việc đã sinh khởi trước đó. Trong thập nhị nhân duyên, cơn mê của con người, từ muôn kiếp trước, gọi là "vô minh". Vô minh là nguyên nhân của mọi phiền não khổ đau, dẫn dắt chúng sanh trôi lăn trong lục đạo luân hồi. Vô minh là không sáng suốt, là si mê lầm lạc, là không nhận được thực tướng của cuộc đời, là điên đảo mộng tưởng, là chấp ngã và chấp pháp. Cho nên, muốn giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, chấm dứt phiền não khổ đau, con người phải phá cho bằng được màn vô minh đen tối, tức là phải "qua cơn mê", phải thức tỉnh, bằng cách thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ bát nhã của mình qua Chánh Pháp.

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:

"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.
Thắp lên với Chánh Pháp".

* * *

Tóm lại, một khi qua cơn mê, xa cuộc đời bềnh bồng, xa mộng tưởng điên đảo, được cứu kính niết bàn, ta lại về bên nhau. Ngày gió mưa không còn, nên đường đời thật dài, ta mặc tình rong chơi. Tỉnh người sau cơn mê, ta thấy đời an lành, thấy mọi người hiền từ, nên đời đẹp như tranh. Ta sẽ ươm thật nhiều, trái yêu thương ngọt ngào, hái đem cho mọi người.

Nghĩa là qua được cơn mê, chúng ta sẽ xa lìa được cuộc sống bềnh bồng, điên đảo mộng tưởng, chúng ta không còn thấy mình tốt hơn người, không còn thấy mình và người khác nhau. Trái lại, sau khi lòng lắng xuống, không còn khổ đau phiền não, không còn tức giận hận thù, không còn đố kỵ ganh tị, không còn thương ghét giận hờn, không còn quay lưng ngoảnh mặt, chúng ta thấy được mọi người đều có "bản tâm thanh tịnh" như nhau, thấy được "tâm cảnh nhất như", không khác.

Do đó, chúng ta đạt được cảnh giới cứu kính Niết bàn, an lạc hạnh phúc, ngay cuộc sống hiện tại, chúng ta lại có thể về bên nhau, sống chung nhau theo tinh thần lục hòa. Tại sao vậy? Bởi vì, tỉnh người sau cơn mê, chúng ta thấy được vạn vật vũ trụ đồng nhất thể, tuổi thọ của con người không hạn chế trong cuộc đời này, không phải chỉ có trăm năm mà thôi. Sống được với bản tâm thanh tịnh, không còn chịu ảnh hưởng của thời gian và không gian, chúng ta mới thực sự thấy đường đời không giới hạn, chúng ta mặc tình rong chơi, tiêu dao tháng ngày, an nhàn tự tại, ở khắp mọi nơi, không bị ràng buộc, không còn phiền não, chẳng còn khổ đau, quên hết sự đời, an hưởng cảnh giới niết bàn. Cho nên chúng ta thấy cuộc đời hết sức an lành.

Chúng ta nhìn mọi người với cặp mắt từ bi, cho nên thấy mọi người hiền từ. Chúng ta nhìn thế gian với cặp mắt lạc quan, cho nên thấy đời đẹp như tranh. Từ đó, cuộc sống của chúng ta sẽ an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời, chúng ta sẽ sống với tâm lượng từ bi hỷ xả, đem yêu thương đến cho mọi người chung quanh, chúng ta sẽ sống đời như lời Đức Phật dạy, niết bàn cực lạc chính là đây, không còn chờ đến sau khi từ giả cuộc đời, mới được niết bàn cầu nguyện, phân ưu mộng tưởng, trên mặt báo chí! Tại sao vậy? Bởi vì khi còn sống, chưa biết được niết bàn thế nào, thì làm sao, sau khi chết, được niết bàn?

Muốn đạt được cảnh giới thanh tịnh của chư Phật chứng được, con người phải thật cố gắng, kiên tâm trì chí, dũng kiệt mạnh mẽ, cắt đứt mọi cám dỗ của cuộc đời. Muốn đạt được an lạc và hạnh phúc trong cuộc đời hiện tại trên thế gian, trong lúc chúng ta vẫn phải đối diện với muôn ngàn khó khăn, phải đối phó với mọi hoàn cảnh bất trắc, bất như ý chung quanh, chúng ta phải sống thực với chính mình, với chính bản thân mình, với tâm lượng khiêm tốn, thực hành hạnh từ bi hỷ xả, và cố gắng giúp đỡ tất cả chúng sanh, sống chung quanh mình, đều được thức tỉnh, giác ngộ, quay về với chánh đạo.

Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật có dạy: "Bồ đề tát đõa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn". Nghĩa là chúng ta muốn phát tâm tu tập, để thoát khỏi phiền não khổ đau, như các vị bồ tát đã làm, thì chúng ta phải nương theo trí tuệ bát nhã ba la mật, tức là trí tuệ nhìn thấy thực tướng của các pháp trên thế gian, nói cách khác là trí tuệ giúp chúng ta qua được cơn mê, qua được bể khổ nguồn mê, sớm đến bờ giác ngộ.

Được trí tuệ bát nhã ba la mật, chúng ta nhìn cuộc đời đúng như thực, không còn si mê lầm lạc, không còn điên đảo mộng tưởng, cho nên tâm không còn quái ngại, không còn việc gì khủng bố được, không còn chuyện gì làm cho sợ hãi. Từ đó chúng ta xa lìa điên đảo mộng tưởng, xa lìa cơn mê nhiều đời nhiều kiếp, cũng như mây đen tan biến thì trăng sáng hiện tiền. Lúc đó, chúng ta hiểu được, thấy được, ngộ được, đạt được, chứng được, sống được trong cảnh giới niết bàn cực lạc, như lời chư Phật dạy, ngay tại thế gian này vậy./.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16035)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3723)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6089)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6285)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3983)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8325)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5602)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15607)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10836)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7921)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]