Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07-Phá rừng tre gai

01/02/201108:04(Xem: 5867)
07-Phá rừng tre gai


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Phá Rừng Tre Gai

Cuốinăm1992, chúng tôi suy yếu đi Vũng Tàu dưỡng bệnh, ở nhờnhà của một Phật tử. Chủ nhà vì chúng tôi mới xây cấtxong. Nhà nằm trên mảnh đất bằng phẳng, bên cạnh sườnnúi đá, dưới chân là biển cả mênh mông. Gió biển thổivào mát rượi, nang theo mùi mằn mặn của chất muối, thậtlà nơi thích hợp cho người dưỡng bệnh. Rất tiếc phiásau nhà có rừng tre gai mù mịt. Nhiều người tới thăm tôi,thấy rừng tre gai gần nhà đề nghị nên dọn sạch cho khoảngkhoát. Mấy chú và một số cư sĩ nghe đề nghị hợp lý,phát tâm "phá rừng tre gai".

Công việc đầu tiên của các vịấy, đi rèn mấy cái rựa bén, cào sắt và một số lốp xeđạp. Ðủ dụng cụ rồi, họ bắt tay vào việc. Nhưng nhìnrừng tre rậm rạp, gai giương lổm chổm, ai nấy đều ớnda gà. Can đảm xông vào chặt những màng nhện chung quanh gốctre sập xuống, họ lấy cào sắt cào cành lá tre khổ ấpvào gốc. Họ dùng lửa đốt gai gốc lia chia quanh bụi trecháy rụi, bày những thân tre trống trải rất dễ chặt. Saucùng họ cầm rựa tận lực chặt từng cây tre, những câytre non chặt ngọt sớt, song gặp cây tre già là dội tay. Nhữngcây tre sống lâu năm cứng như sắt nguội, họ phải vậndụng hết sức chặt đôi ba nhát mới đứt. Những bụi tređan chằng chịt nhau, tuy chặt đứt gốc mà không dễ gì xôngã. Phải gắng sức tối đa và hợp lực lại, họ lôi kéomới ngã xuống. Mặc dầu ngã xuống, song từng lớp sóng trengập cả khu đất. Cuối cùng họ phải dùng rựa, cào sắt,khó khăn lắm mới dọn dẹp thành từng cụm, từng khóm. Ðợitre khô, họ châm một mũi lửa cháy sạch, chỉ còn sót lạinăm ba cây thân còn tươi bị cháy nham nhở. Ðến đây đãthành một khu đất trống trải phủ trên mặt một lớp trothan. Dụng cụ quan trọng trong công cuộc phá rừng tre gai nàylà rựa bén, cào sắt và lửa. Song có dụng cụ tốt và đầyđủ mà thiếu quyết tâm, nỗ lực và bền chí của con ngườithì không thể nào làm thành công. Nhờ quyết tâm, nỗ lựcbền chí của con người mà rừng tre gai chằng chịt nguy hiểmphải tiêu tan.

Cũng thế, người Phật tử muốndẹp sạch rừng phiền não cần phải có đầy đủ dụng cụvà từng giai đoạn tiến lên mới đạt được cứu cánh giảithoát. Dụng cụ của Phật Tử là kiếm trí tuệ và lửa thiềnđịnh. Từng giai đoạn tiến lên phá dẹp tà kiến và phásạch chấp ngã chấp pháp.

Bát nhã là kiếm trí tuệ, như rựabén. Muốn xông vào phá rừng phiền não, Phật tử phải nhờvào văn tự Bát nhã làm kiếm bén. Căn cứ trên văn tự bátnhã, chúng ta mới nhận ra chân lý, nhân đó dẹp sạch nhữngkiến chấp sai lầm do phong tục tập quán còn để lại vàcác tà kiến tạo nên. Ví như lấy rượu làm lễ nghĩa, nhưkhay trầu rượu, hoặc nói "vô tửu bất thành lễ"; tập quánngười chết linh hồn ở mãi với con cháu ..., tà kiến thờthần cây đa, thờ ông táo, bình vôi ... Muôn ngàn thứ sailầm chằng chịt khó phá, giống như màn nhện tre gai, phảicó cây kiếm trí tuệ chặt đứt từng đoạn rã rời. Thứđến dùng chánh định đốt sạch, như dùng cào sắt gom cànhkhô lá mục vào gốc, châm một mũi lửa cháy tiêu tan.

Kế đó, chúng ta dùng quán chiếuBát nhã chiếu soi năm uẩn sáu trần đều do duyên hợp khôngcó thực thể. Chiếu soi tường tận thấu đáo, chúng ta thấyrõ thân này (ngã) và sự vật chung quanh (pháp) đều khôngcó chủ thể. Nói là ta (ngã) hay vật (pháp) chỉ căn cứ trêngiả tướng hư ảo làm chấp, chớ không có ta thật vật thật.Nhận thấy thấu đáo như thế, mọi chấp ngã chấp pháp đềutan vỡ. Ví như sau khi đốt xong màng nhện tre gai, chúng tadùng rựa bén chặt từng cây ngã gục.

Tuy thế chưa phải là xong, ngườiPhật tử phải tu tiến lên "Thật tướng Bát Nhã". Kinhnói "Bát nhã vô tri, vô sở bất tri". Nghĩa là đếnthật tướng Bát nhã, không còn khởi tâm phân biệt tất cảpháp, nên nói "vô tri"; song thể hằng trong sáng muôn vật đềuhiện bày rõ ràng, nên nói "vô sở bất tri". Như gương sángtrên đài, gương không phân biệt tất cả vật, mà không vậtnào ở trước không hiện bóng trong gương. Vô tri là định,vô sở bất tri là huệ, đến đây thể định huệ viên mãn.Ðược vậy, mọi phiền não thành tro bụi. Như khi những cụmtre khô rang, chỉ cần châm một mũi lửa là cháy sạch trởthành than tro. Thiền sư Huyền Giác nói: "Ðại trượng phubỉnh tuệ kiếm, Bát nhã phong hề kim cang diệm"(Chứngđạo ca). Nghĩa là "Người trượng phu cầm kiếm tuệ, lửakim cang chừ bát nhã bén". Lửa kim cang ở đây là "thậttướng Bát nhã". Ðược thật tướng Bát nhã là sạch phiềnnão, đến bờ thanh lương. Ngài Thái Hư nói: "Ví như cóngười muốn sang sông, trước phải nhờ thuyền bè, kế phảinhờ chèo bơi, sau cùng mới đến bờ kia. Thuyền bè là văntự Bát nhã, chèo bơi là quán chiếu Bát nhã, đến bờ kialà thật tướng Bát nhã". Phá rừng tre gai phải đi từngbước một, phá rừng phiền não, chúng ta cũng phải tiếntừng giai đoạn mới thu nhặt được kết quả nhu nguyện.

Tuy nhiên có văn tự Bát nhã, quánchiếu Bát nhã, thật tướng Bát nhã đầy đủ mà chúng tathiếu quyết tâm, tinh tấn và nhẫn nhục thì tiêu diệt phiềnnão cũng khó thành công.

Người tu Phật thấy thân này mỏngmanh như áng mây, tạm bợ như hòn bọt, quyết tâm hy sinh thântạm bợ (báo thân) đổi lấy thân kim cang bất hoại (phápthân), không có gì phải ngần ngại. Khi đã nhận thấy nhưthế, dù lao mình vào cảnh hiểm nguy vẫn xem như trò chơi.Do đó mới có nhà đại thí chủ cắt đầu tặng vua Kế Tân,chàng dũng sĩ chặt tay dâng tổ Ðạt Ma. Chính cái quyết tâmvong thân ấy, còn rừng phiền não nào mà phá chẳng sạch.

Kế đến phải mãi mãi tinh tấn.Tinh tấn là sức gắng gổ không ngừng. Dù biết là việctốt đáng làm mà không nỗ lực gắng sức thì việc tốtcũng khó thành công. Tinh tấn là chất nhiên liệu của chiếcxe ô tô, nhiên liệu hết thì xe phải dừng. Người ngồi xemuốn xe đến đích phải xem chừng không để cho nhiên liệucạn. Cũng thế, người học đạo giải thoát muốn đạt đạoquả phải nuôi dưỡng sức tinh tấn không cho thiếu vắng.Thiếu tinh tấn người tu sĩ sẽ dẫm chân tại chỗ, hoặcthối lui là khác. Có tinh tấn là có đạo quả và đạt đượcsở nguyện của mình.

Tinh tấn là thiết yếu, song cầnphải có nhẫn nhục phụ trợ thì sự tu hành mới đượcthành công. Vì phiền não vô vàn không thể tính kể được,chúng ta phá lớp này, lớp khác lại hiện ra, nếu không daisức nhẫn chịu thì dễ sanh chán nản rồi thối tâm bồ đề.Phiền não sâu dày như đất, bù tịt như rừng, muốn đàotận đáy, muốn chặt sạch trơn, phải dày công và trải quanhiều tháng năm mới thấy được kết quả. Nhẫn nhục làsức chịu đựng dẻo dai, đón nhận mọi khó khăn trở ngại,với thời gian dài mấy cũng không ngán. Có đủ sức chịuđựng này, dù rừng phiền não có gai góc bao nhiêu, có dàybịt đến đâu cũng bị dẹp tan phá sạch. Người tu Phậtnhắm đến xa thăm thẳm, chướng ngại và hầm hố dẫy đầy,nếu thiếu đức nhẫn nhục thì có đi mà không có đến.

Tóm lại, muốn phá rừng tre gai,chúng ta phải có đầy đủ dụng cụ, cộng thêm quyết tâmnỗ lực và bền chí của con người, rừng tre gai phải tanhoang, biến thành tro bụi. Muốn dẹp sạch trần lao phiềnnão, người tu phải có trí tuệ, thiền định đầy đủ.Trí tuệ, thiền định là pháp tu, cộng thêm quyết tâm, tinhtấn, nhẫn nhục của con người thì "phiền não vô tậnsẽ đoạn sạch" . Người tu là kẻ đối đầu với mavương, là chiến sĩ tảo thanh bọn giặc phiền não. Cho nên,kiếm trí tuệ không rời tay, cung thiền định nằm sẵn trênvai, vừa có bóng dáng kẻ thù xuất hiện, chúng ta liền hànhđộng ngay. Bất cứ lúc nào, nơi nào cũng là bãi chiến trường,chúng ta sẵn sàng ứng chiến hai mươi bốn trên hai mươi bốn(24/24). Có vậy, trận chiến với ma phiền não mới thành côngviên mãn. Bởi chúng là ma, nên sự ẩn hiện của chúng khólường, chúng ta luôn đề cao cảnh giác không một phút giâylơi lỏng, mới mong có ngày "ca khúc khải hoàn".







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16026)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3713)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6085)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6277)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3973)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8313)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5599)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15591)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10829)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7917)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]