Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04-Cuộc đời tương đối mà!

01/02/201108:04(Xem: 5794)
04-Cuộc đời tương đối mà!


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Cuộc Ðời TươngÐối Mà!

Hầuhếtchúng ta đều mắc phải cái bệnh "đòi hỏi tuyệt đối".Giàu thì mình muốn giàu hơn tất cả, sang cũng muốn mìnhsang hơn tất cả, cho đến đẹp, giỏi, khen, đều là hơntất cả. Có cái gì thua kém hơn người là buồn, tủi, bựcdọc không hài lòng. Do đó cộc sống không thấy có hạnhphúc, vì thấy mình còn thua người này kẻ nọ. Hoặc thantrách người thân của mình sao không được như ý mình muốn.Những nỗi khổ đau buồn bực ấy đều do không hiểu "cuộcđời tương đối mà!"

MuônVậtTương Ðối

Muôn vật hiện có trên cõi đờiđều là tương đối. Người thì có nam nữ, loài vật thìcó giống đực giống cái, điện thì có điện âm điện dương...,từ lý tương đối ấy mà sinh ra vạn vật. Chính lý tươngđối là gốc sinh hóa vô cùng vô tận. Nếu chúng tách rờisự vật ra từng phần đơn độc thì sự sinh hóa phải dừnglại. Cuộc sống chúng ta là tương quan trong cái đối nghịch,sinh trưởng trong cái chống chọi. Như thế, làm sao chúng tatìm ra sự bình an hoàn toàn, sự hạnh phúc miên viễn trongcuộc đời tương đối. Sáng suốt nhất là chúng ta nhìn sựtương đối là lý đương nhiên, không oán hờn, không tráchcứ trước mọi sự việc trái ngược nhau. Ðồng thời chúngta khéo lợi dụng lý tương đối tạo thành những công nănghữu ích cho con người. Thí dụ nước với lửa là đối nghịchnhau, song nếu chúng ta khéo dùng lửa đun sôi nước để nấuchín các thức ăn... Ðiện âm điện dương đối nghịch nhau,chạm nhau làm tóe sáng, con người khéo lợi dụng sự phátsáng đó tạo ra vô số công năng của điện... Chừng đóchúng ta mới thấy sự hữu dụng của nước với lửa, củađiện âm điện dương phục vụ cho con người một cách hữuhiệu. Chúng ta cứ sợ nước dập tắt lửa, tách rời xa chúngthì chúng ta có được lợi gì trong cuộc sống. Như vậy,chúng ta không sợ sự đối nghịch của vạn vật mà chỉkhéo léo sử dụng sự đối nghịch một cách hữu hiệu trongcuộc sống của chúng ta.

BảnThân Con Người Tương Ðối

Con người có hai phần vật chấtvà tinh thần, cả hai phần này đều là tương đối.
Phần vật chất:- Ðức Phậtphân tích một cách đơn giản, trong cơ thể con người do bốnthứ cất tạo thành. Phần cứng rắn là đất, phần thấmướt là nước, phần nóng ấm là lửa, phần chuyển độnglà gió. Bốn phần này chung họp làm thân con người và tồntại một thời gian. Nếu thiếu một trong bốn phần, thânnày phải bại hoại. Bản thân bốn phần này lại đối nghịchnhau, nước chống với lửa, gió chọi với đất. Cho nên trongkhi nước thạnh lửa suy thì sanh ra bệnh lạnh, hoặc phù thủng...,ngược lại khi lửa thạnh nước suy thì sinh ra bệnh nóng,nhức đầu..., khi gió thạnh đất suy thì sanh ra bệnh đaunhức khắp thân thể; khi đất thạnh gió suy thì sanh ra bệnhtê liệt, khó thở ... Do đó mang thân này suốt đời chúngta phải điều hòa tứ đại. Tứ đại được điều hòa thìthân mới mạnh khỏe an ổn, ngược lại thì đau ốm liênmiên. Bốn thứ đối nghịch này, chúng ta có nên hủy hoạinó không, nếu chúng ta còn muốn sống? Hay mỗi ngày chúngta cố gắng điều hòa chúng để cho thân này được an ổn.Bốn thứ thù nghịch nhau, song nhờ bốn thứ mà thân này mớitồn tại. Như thế chúng ta sợ ghét sự chống đối hay khéođiều hòa sự chống đối ? Muốn thân này còn sống đượcan ổn, không cách nào hơn chúng ta phải biết điều hòa chúngmột cách thích hợp. Ðó là khôn ngoan, là biết sống.
Phần tinh thần- Nội tâmchúng ta đối nghịch nhau rất là phức tạp. Ở đây tạmchia tâm niệm thiện và tâm niệm ác đối nghịch nhau. Songkhi niệm ác dấy lên thì niệm thiện ẩn đi, ngược lạikhi niệm thiện dấy lên thì niệm ác trốn mất, hai thứ đốinghịch nhau mà không đồng thời. Vì thế nếu biết tu, chúngta luôn luôn nuôi dưỡng niệm thiện thì niệm ác lặn mất.Nếu người không biết tu, cả ngày dung chứa niệm ác thìniệm thiện không bao giờ xuất hiện. Nuôi dưỡng niệm thiệnlà bậc hiền thánh, dung chứa niệm ác là kẻ bạo tàn. Chúngta trọn quyền tạo lập cho mình một chỗ đứng vào hàngthánh thiện, cũng chính chúng ta tự bước lùi vào hang quỉ,chỗ thú cầm. Không ai bắt buộc, không ai lôi kéo chúng tađến nơi này hay nơi nọ. Do đó, đức Phật dạy chúng tatu quán từ bi để trừ tâm sân hận, quán tứ niệm xứ đểdiệt mê lầm, hoặc niệm danh Phật để át tạp niệm...Chúngta có đủ khả năng làm hiền thánh, chúng ta cũng có đủchủng tử ngạ quỉ súc sanh. Bởi vậy nói tu tâm là chúngta khéo điều phục những tâm niệm xấu ác, nuôi dưỡng nhữngtâm hiền thiện. Khi sắp lâm chung, những tâm niệm nào mạnhsẽ lôi chúng ta đến cảnh tương xứng. Vì tâm niệm là gốccủa luân hồi sanh tử.

Thế thì bản thân chúng ta từ vậtchất đến tinh thần đều là tương đối. Như vậy chúngta không ưa tương đối, chạy trốn tương đối có đượckhông? Quả là điều dại khờ. Chúng ta phải khôn ngoan sángsuốt tìm mọi cách điều hòa cho thân an ổn, chinh phục chotâm hiền thiện. Ðây là việc làm của người biết sốngvà sống vươn lên.

TươngQuan Mình và Người

Trong cuộc sống tương quan giữamình và mọi người chung quanh, hầu hết chúng ta mắc phảicái bệnh "cầu toàn trách bị". Chúng ta đòi hỏi nhữngngười sống gần với mình phải vẹn toàn một trăm phầntrăm như ý mình muốn, phải đầy đủ hoàn toàn những điềunhư tâm mình tưởng. Nếu những người thân chỉ được támchục phần trăm trong sự đòi hỏi của mình, sống gần gũilâu ngày còn hai chục phần trăm bất như ý sẽ làm chúngta sinh bực bội chán chường. Sao chúng ta không đặt lạicâu hỏi, chính mình có được vẹn toàn mọi điều như ýmình muốn chăng? Hẳn là không. Mình đã không được vẹntoàn, sao lại đòi hỏi người phải vẹn toàn, có phải làbất công, phi lý không? Ngày xưa ở các nước Ðông Phươngquyền lập gia đình cho con cái là ở cha mẹ, cha mẹ địnhsao con cái phải nghe vậy. Do đó có những gia đình vợ chồngkhông hòa thuận vì không cảm thông nhau, nên đi đến đổvỡ ly dị. Ngày nay ở các nước Tây phương con cái đượcquyền chọn lựa đôi bạn cho mình. Họ có quyền sống gầnvới người họ chọn lựa một thời gian, sau mới quyết địnhthành đôi bạn hay không, cha mẹ không được quyền can thiệpđến đời tư của họ. Thế mà khi đã thành đôi bạn, lạivẫn ly dị nhau. Ðây là lỗi tại ai, cha mẹ ép buộc chăng?Quả thực đây là cái bệnh đòi hỏi vẹn toàn một trămphần trăm theo ý mình muốn. Bởi không có ai thỏa mãn sựđòi hỏi cuả mình nên từ thân biến thành sơ. Thế là cứly dị mãi, đến già trở thành người cô độc. Chúng ta cònthêm lắm bệnh. Nào là muốn ai cũng khen mình, có người chêlà buồn khổ. Muốn mọi người gần mình phải tuyệt đốituân theo sự sắp đặt của mình, nếu 80 điều họ theo, còn20 điều họ chống là giận dữ bực tức. Ðòi hỏi ngườithân của mình phải tốt tuyệt đối, nếu họ có vài ba điềuxấu liền chán nản muốn lánh xa. Ðến tình cảm thương yêucũng vậy, bắt buộc người thân của mình phải thương yêumình tuyệt đối, nếu bị chia xẻ cho ai, dù người ấy làthân thuộc hợp lý, vẫn cảm thấy buồn. Chính vì lòng thamđòi hỏi quá đáng, khiến người chung quanh chúng ta muốntừ từ xa lánh chúng ta. Ðây là vì không biết cuộc đờilà tương đối, nên không thông cảm với mọi người chungquanh, kết quả tự chuốc lấy khổ đau cô độc. Trái lại,chúng ta tập nhìn mọi người với cặp mắt tương đối,không đòi hỏi quá đáng, dễ thông cảm tha thứ nhau. Ðượcvậy đời sống sẽ vui tươi, người thân đông đảo, dễdàng đạt được hạnh phúc.

BệnhThần Tượng

Chúng ta dễ mắc cái bệnh "thầntượng hóa"người mình quí kính. Người mình quí kínhlà thánh thiện một trăm phần trăm, nếu thân cận một thờigian, thấy vị ấy còn một vài điều phàm tục, "thần tượng"liền sụp đổ. Từ đây ta sanh tâm khinh nhờn cho đến bấtmãn, không còn tin tưởng vào ai nữa. Ðây là một trọng bệnh,khiến ta tự cao ngạo mạn, mất lòng tin. Khi trước do tinvào bậc thầy thánh thiện nên ta tinh tấn tu hành, nay mấtlòng tin rồi sinh bê tha hư đốn. Tại sao ta không sét nétkỹ càng xem, bậc thầy kia hơn mình bao nhiêu phần? Nếu tacó hai mươi phần trăm tốt, vị thầy có đến bốn chụcphần trăm hay sáu chục phần trăm thì đáng cho mình học tậptheo. Vì vị ấy đã tốt hơn mình gấp đôi gấp ba, còn chêtrách nỗi gì. Bởi vì vị thầy chưa phải là thánh, là Phậtlàm sao hoàn toàn thánh thiện được. Chúng ta cảm thông vịấy đang tu, là còn những cái dở để sửa, để bỏ. Bồtát vẫn còn vi tế vô minh, nếu sạch hết vô minh là thànhPhật. Biết rõ cái tốt của những vị mình quí kính là tươngđối, thì mình kính tin vừa phải, chừng mực, không "thầntượng hóa". Nếu vị thầy ấy còn vài nét phàm tục, mìnhcũng cảm thông tha thứ, vì đây là người đang tu đang tiến,đừng đòi hỏi qúa đáng. Hoặc giả ngày xưa mình tin vàovị thầy gần như tuyệt đối, vị ấy dạy gì mình cũngcố gắng làm cho được, nhờ đó trên đường tu mình tiếnbộ vượt bực. Nay mình mất lòng tin ở vị thầy ấy, sinhtâm lui sụt, đây là điều sai lầm. Tại sao mình không nghĩ,ta tu là ta tiến, thầy tu thì thầy tiến. Ðâu phải thầytu hay ta mới tiến, thầy tu dở ta bị lùi. Phải tin vào mình,phải trông cậy vào mình. Phật dạy" "các ông phải tựthắp đuốc lên mà đi", lại "các ông phải làm cồnđảo cho mình". Thế nên, không vì "thần tượng sụp đổ"mà ta lùi bước. Chính chúng ta phải nhìn các bậc thầy quíkính vẫn là tương đối thì chúng ta khỏi chới với khi trôngthấy vài nét phàm tục của các ngài.

LụcTổ Dậy 36 Pháp Ðối

Trong kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổdạy đệ tử sau này có ai hỏi đạo nên dùng 36 pháp đốiđể trả lời thì không sai tông chỉ nhà thiền. Nếu ngườihỏi "có" lấy "không" đáp, người hỏi "sáng" lấy "tối"đáp... Tại sao ? Vì nhơn "không" mà lập "có". Bởi có cái"không" mới thành lập cái "có" không có cái "không" thì cái"có" cũng chẳng thành. Ngược lại, nhơn cái "có" mà lậpcái "không", nếu chẳng có cái "có" thì cái "không" cũng vônghĩa. Ðến cái sáng cái tối cũng thế. Do tối mới lậpsáng, nhơn sáng mới nói tối. Hai cái nương nhau mà thành,không có thật pháp. Tất cả sự vật ở thế gian đều làđối đãi nhau mà lập, không có một pháp nào là thật. Thếmà chúng ta chấp thật pháp, thật ngã, tăng trưởng si mê,chìm đắm mãi trong biển luân hồi sanh tử. Dưới con mắtcủa Phật của Tổ thấy rõ các pháp như huyễn như hoá, nêncác ngài vượt ra ngoài vòng sanh tử luân hồi. Thấy tấtcả là tương đối hư giả là cái thấy của người giácngộ.

ChỉTâm Chẳng Sanh Diệt Là Tuyệt Ðối

Tuy nhiên trong cuộc đời tươngđối vẫn có cái tuyệt đối mà ít ai biết đến. Chúng tacứ quen chạy theo hình sắc thanh âm là những thứ vô thườngsanh diệt. Ngay cái sanh diệt lại đòi cho được tuyệt đối,quả là chúng ta bắt bóng mò trăng. Làm gì có, ngay cái đốiđãi sanh diệt lại là tuyệt đối vô sanh. Khi chúng ta vươntheo hình thức sự vật mà mong được cái chẳng sanh chẳngdiệt. Hãy nghe hai câu sau trong bài kệ trình kiến giải lênNgũ Tổ của người cư sĩ họ Lư: "Xưa nay không một vật,chỗ nào dính bụi nhơ" (Bản lai vô nhất vật, hà xứnhạ trần ai). Có vật là vô thường sinh diệt, dù cứng nhưchất kim cương, cũng là vô thường sinh diệt. Chỉ có tâmthể không hình tướng, không dấy động mới là bất sanhbất diệt. Tâm thể vượt ngoài đối đãi hai bên, vĩnh hằngbất biến. Vừa thấy hai bên là mất tâm thể rồi. Cho nênTổ Tang Xán kết thúc bài Tín Tâm Minh nói "Tín tâm bấtnhị, bất nhị tín tâm" (Tin tâm không còn hai, không haitin tâm). Có hai còn là đối đãi, không hai thì đối đãivới cái gì. Chính cái vượt ngoài đối đãi mới thực sựlà tuyệt đối. Cái tuyệt đối có sẵn nơi mọi người chúngta không phải tìm kiếm bên ngoài. Biết buông tâm niệm đốiđãi, sống bằng thể không đối đãi là người giác. Tráilại, chạy theo tâm niệm đối đãi sinh diệt, quên mất tâmthể bất sanh bất diệt là ngưòi mê.

KếtThúc

Con người chán nản ê chề khổđau cùng cực, vì những thần tượng của mình dựng nên đềusụp đổ. Còn tin tưởng vào đâu khi lòng tin tuyệt đốidồn vào các thần tượng, mà nay tan vỡ hết rồi. Ðây làngười mắc bệnh thiếu thực tế, lúc nào cũng lý tưởnghoá kẻ khác. Khi lý tưởng bị thất vọng, họ đâm ra thùghét chán chường. Cộng thêm bệnh đòi hỏi quá đáng, khiếnhọ không bằng lòng một ngừơi nào trên thế gian này. Thếlà, họ đang sống trong đông đảo quần chúng, mà cảm thấynhư mình lang thang trong bãi sa mạc. Sự chán đời tuyệt vọngcủa những người này phát xuất từ sự gởi gấm tất cảlòng tin vào kẻ khác. Chúng ta phải khôn ngoan nhìn mọi ngườibằng con mắt tương đối, tin mọi người bằng lòng tin giớihạn. Chúng ta sẽ bằng lòng trong đời sống này, và sẽ cảmthông tha thứ những người thân với mình khi họ phạm phảisai lầm. Chúng ta còn chỗ nương dựa duy nhất là chính mình.Mình sẵn có hòn ngọc quí mà lâu nay đã quên lãng.Hôm naykhéo tay mở chéo áo lấy hòn ngọc đem ra dùng, đời ta sẽhạnh phúc biết là bao!




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/07/2015(Xem: 7202)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
03/07/2015(Xem: 10126)
1. Bí mật của Đức Đạt Lai Lạt Ma: Đừng lo lắng về những thứ bạn không thể thay đổi và hãy có được chín giờ ngủ mỗi đêm. 2. "Mang theo thông điệp tình yêu, lòng khoan dung, và sự tha thứ." 3. "Hãy xem nhân loại là đồng nhất, sau đó không có cơ sở để giết hại lẫn nhau. Tôi yêu đời sống của tôi. Mọi người đều có quyền được sống hạnh phúc. Hầu hết các vấn đề gây ra bởi con người. Giết chóc, bắt nạt, bóc lột. Chúng ta phải tìm giải pháp dài hạn. Điều này rất khó khăn.
01/07/2015(Xem: 13449)
Hề chi một phận đời riêng Buông hơi nằm xuống mà nghiêng đất trời Thiếu ta, đời cũng vậy thôi! Ta là hạt bụi giữa đời bao la..
01/07/2015(Xem: 24183)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 19882)
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là
01/07/2015(Xem: 11440)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
29/06/2015(Xem: 9206)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8194)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12149)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 31121)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]