Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01-Tu là cầu bình an hay sửa đổi xấu thành tốt

01/02/201108:04(Xem: 6338)
01-Tu là cầu bình an hay sửa đổi xấu thành tốt


CÀNH LÁ VÔ ƯU
Thích-Thanh-Từ

Tu Là Cầu Bình AnHay Sửa Ðổi Xấu Thành Tốt

TrongPhậtTử chúng ta ngày nay đa số không hiểu rõ chữ tu, nênứng dụng sai lầm một cách đáng thương. Khi đến chùa quiy, họ thầm nghĩ từ đây về sau được Phật hộ độ chomình khoẻ mạnh, gia đình mình an ổn, mọi mong cầu đượcnhư ý, khi chết được Phật rước về cõi Phật... Chớ họkhông hiểu rằng, kể từ ngày qui y Tam Bảo là tự mình quyếttâm chừa bỏ những thói hư tật xấu, mình quyết thắng mọitâm niệm, hành động đê hèn ác độc của mình tạo dựngđầy đủ phước lành để chết được sanh về cõi Phật.Họ đinh ninh trong lòng TU là nương tựa Tam Bảo, là van xinvới Phật, là thỏa mãn mọi mong cầu, là an lành suốt cuộcđời..., nên trở thành yếu hèn ỷ lại, mất hết ý nghĩachữ TU.

Bởi bản chất của con người làyếu hèn, sợ hãi, tham lam, nên bước vào đường tu, họ thíchỷ lại, van xin và mong cầu. Do đó làm biến thái tinh thầntu hành của người Phật Tử.

YếuHèn- Phát xuất từ tư tưởng yếu hèn, nênkhi qui y Tam Bảo Phật tử này chỉ một bề trông cậy gởigấm đời sống của mình và gia đình mình cho Phật, mọiviệc đều Phật độ hộ cho, khi sống được bình an, lúcchết được Phật rước về cõi Phật. Với tâm niệm này,Phật tử cứ tưởng tu là thường đi chùa lễ Phật, thườngcúng dường, thường cầu nguyện là tròn bổn phận ngườitu. Những người này cung kính Phật như một vị thần hộmạng, tưởng như Phật đủ quyền năng bảo hộ cho bản thânvà gia đình họ suốt đời. Vì thế, khi bản thân hay gia đìnhxảy ra tai ách gì, họ tha thiết chí thành cầu Phật gia hộcho tai qua nạn khỏi. Nếu cầu nguyện Phật không được kếtquả, nghe ở đâu có cậu đồng bà bóng giỏi, hoặc ông thầnnàolinh thiêng cầu gì cũng được như nguyện, họ liền mang hươngđèn đến đó cầu xin. Bởi đến Phật bằng tâm ỷ lại,nên khi trông cậy không được toại nguyện thì họ bướcsang nơi khác một cách dễ dàng.

SợHãi- Khi gặp tai nạn, người ta không biếtnơi nào ẩn náu cho được an ổn, nghe ai giới thiệu qui yvới Phật sẽ được bình an, họ liền đến xin qui y Tam Bảo.Họ cứ nghĩ qui y Phật sẽ được Phật che chở, cứu độcho qua hết tai nạn. Vì thế, họ chỉ biết tu là van xin, cầukhẩn, chí thành khấn vái là tu. Mỗi đêm họ thắp hươnglễ Phật, cầu nguyện Phật gia hộ cho họ được mọi thứan bình. Trong gia đình khi có người bệnh hoặc xảy ra tainạn, họ thắp hương quỳ trước bàn Phật tha thiết van xinPhật cứu bệnh giải ách. Nếu van xin được kết quả tốt,họ tăng trưởng lòng tin Tam Bảo. Bằng trái lại, họ mấtlòng tin Phật, vì Phật không linh ứng như sở cầu. Ðượcnghe nơi nào linh thiêng xin gì được mấy, họ liền từ giãđạo Phật để sang nơi đấy cầu xin. Do họ đến với Phậtbằng tâm niệm sợ hãi, nên đời tu của họ chỉ cầu đượcbình an. Nếu không được bình an, họ sẽ chạy tìm nơi khácđể ẩn nấp.

ThamLam- Do lòng tham sâu đậm, nên khi quy y Phậthọ vẫn một bề mong cầu cho thỏa mãn lòng tham. Ðến chùakhông phải để học đạo tu hành, mà để cầu xin. Chỉ cầncúng Phật một bó nhang, một dĩa quả, họ lại xin Phật đếntrăm ngàn thứ. Nào là xin Phật cho gia đình bình an, xin chocon cái thi đậu, xin cho làm ăn phát tài, xin cho tai qua nạnkhỏi, xin cho thân nhân qúa cố được siêu sinh Tịnh độv.v... và v.v... Họ chi ra cúng Phật quá ít, mà họ lại xinquá nhiều. Nếu xin được như ý thì họ tinh tấn đi chùa,còn xin không được thì họ tìm chỗ nào linh thiêng hơn đểđến cầu xin cho thỏa mãn.

Bởi những người Phật tử nhưthế đến với chùa, nên trong chùa mới có xin xâm bói quẻ,coi sao cúng hạn, coi ngày lành ngày dữ để thỏa mãn đòihỏi của họ. Mặc dù gần đây Giáo Hội Phật Giáo ViệtNam kêu gọi dẹp bỏ mê tín dị đoan, song thói quen của cácPhật tử này vẫn chưa bỏ được. Nguyên nhân Phật Giáosuy đồi phần lớn do những vị này mà ra. Là Phật tử màhọ không tin nhân quả, không hiểu Phật là gì, không biếttu thế nào, làm sao không tạo thành những điều kiện u tốicho Phật Giáo? Ðây là nhũng tệ nạn do các Phật tử quanniệm tu Phật để "Cầu được bình an."

Nếu người hiểu rõ "Tu là sửađổi xấu xa thành hay tốt"thì không có quan niệm nhưtrên. Mục đích của họ đến qui y Tam Bảo cốt nương chánhpháp để tu hành trừ sạch bệnh tham sân si phiền não củamình. Phật thường dạy, Ngài "theo bệnh cho thuốc để trừbệnh khổ cho chúng sanh". Nơi nột tâm chúng ta có bệnh gìthì Phật có thứ thuốc ấy để trị lành bệnh. Cho nên nói:"Chúngsanh có vô lượng phiền não, Phật có vô lượng pháp môn".Vì thế, tu là dùng Phật pháp chuyển hóa tâm niệm sai lầm,xấu xa, tội ác của chúng ta. Biết vậy thì tu là phải họchỏi giáo pháp và ứng dụng giáo pháp để trị lành nhữngtâm bệnh của mình. Học hỏi giáo pháp là mở sáng con mắttrí tuệ, là đi dần trên con đường giác ngộ, tức là tutheo đạo Phật. Vì Phật là con người giác ngộ, đạo Phậtlà con đường tiến đến giác ngộ. Mọi khổ đau của chúngsinh do si mê tạo nên, muốn giải thoát khổ đau là phải giácngộ. Tuy nhiên giác ngộ mức độ cao thấp khác nhau, tùy đómà con người được bớt khổ hay hết khổ. Học hỏi giáopháp là học Phật, ứng dụng giáo pháp để tu hành là tuPhật. Với tinh thần tu học này, chúng ta không tìm đâu thấycó ỷ lại, van xin, cầu cúng; mà thấy mỗi người trang bịsẵn ngọn đuốc trí tuệ cuả mình để mồi với ngọn đuốcchánh pháp của Phật. Những người này không có yếu hèn,sợ hãi, tham lam; mà lòng cương quyết, can đảm, kiên trìtự nỗ lực tu hành cho đến ngày giải thoát. Tham sân si làmục tiêu họ phải chiến đấu đến bao giờ tiêu diệt hếtmới thôi. Bởi vậy một bước tiến tu là một niềm an lạc,càng tu khổ đau càng tan rã, như tuyết giá tan rã khi ánh mặttrời lên, có duyên cớ nào phải lùi bước đi theo đườngtà.

Ðược nhiều người tin Phật, chưahẳn Phật Giáo đã thịnh. Nếu tin theo lối ỷ lại, van xin,cầu cúng, dầu có bao nhiêu triệu người, Phật Giáo vẫnbị chìm trong u tối. Vì mê tín thì không giác, không giácthì có dính dáng gì với dạo Phật? Chúng ta thực tâm tu theoPhật thì cố mở con mắt trí tuệ, nhận chân Chúng ta thựctâm tu theo đạo Phật thì cố mở sáng con mắt con mắt trítuệ, nhận chân những sự thật qua lời dạy của đức Phật.Như Phật dạy "Các pháp là vô thường", chúng ta phảichiêm nghiệm lý này cho tường tận, thấu suốt tường tậnchúng ta mới nếm được pháp vị vô thườngcủa Phậtban cho. Ðạo lý "nhân quả"là nền tảng của PhậtGiáo, nếu chúng ta không suy tư cho đến thấu đáo thì lòngchánh tín khó phát sanh. Phật dạy "tin nhân quả là chánhtín", nếu chúng ta không chịu khó rà đi xoát lại kỹcàng thì làm sao đủ lòng tin nhân quả. Bởi không tin nhânquả, chúng ta dễ sanh yếu hèn, sợ hãi, van xin rơi vào đườngmê tín. Lý "nhân duyên"là chân lý của muôn pháp, nếukhông nghiền ngẫm thật chín chắn, thật nhuần nhuyễn, chúngta không thể hiểu nổi chỗ thâm áo của nó. Ðã không hiểulý nhân duyên, chúng ta làm sao thấy được chỗ cao siêucủa Phật Giáo mà sinh lòng tin kính.

Muốn hưởng được pháp vị mộtcách thấm thía nồng nàn, người Phật tử phải tận lựcsuy tư nghiền ngẫm chánh pháp thật tường tận tinh vi. Nhưmuốn thưởng thức hương vị của thúc ăn thật đầy đủ,người ta phải nhai thật nhuyễn những thức ăn ấy. Ðồngthời Phật tử phải ứng dụng triệt để chánh pháp trongcuộc sống hàng ngày. Mọi người ai cũng thừa nhận nơi nộttâm của mình đã sẵn có tính lương thiện và tính tội ác.Tội ác là nhân khổ đau cho mình và cho người, đời nàyvà đời sau, nó làm cho con người trở thành hèn hạ xấuxa. Lương thiện là nhân an vui cho mình cho người, đời nàyvà nhiều đời khác, nó gầy dựng cho con người trở thànhbậc Hiền, Thánh. Nếu muốn hết khổ được vui, chúng taphải dẹp bỏ tính tội ác, nuôi dưỡng tính lương thiện,chính đây là tu. Tu là điều kiện thiết của mọi người,không riêng ai và giới nào, nếu là người muốn hết khổđược vui và cố vươn lên bậc Hiền, Thánh.

Ước mong các Phật tử tự kiểmđiểm lại xem, mình thuộc hạng nào trong hai hạng trên. Nếulà hạng đến với Phật "để cầu bình an" thì nên chuyểnhướng can đảm vươn lên để thành Phật tử chân chánh khôngthối chuyển trên đường đạo. Nếu là hạng đến với Phậtđể "sửa đổi xấu thành tốt" thì cố gắng hơn nữa đểmọi xấu xa đều dứt sạch, mọi khổ đau đều tan biến,tự tại tiến thẳng trên đường giác ngộ. Toàn thể Phậttử đều là người chánh tín, biết ưng dụng chánh pháp chuyểnhóa ba nghiệp của mình trở thành con người thuần thiện,thì Phật Giáo mới thật sự là ngọn đuốc sáng soi đườngcho chúng sinh ra khỏi đêm tối vô minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2014(Xem: 12914)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8564)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10127)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9451)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8438)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 8805)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
21/10/2014(Xem: 6583)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21386)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7367)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 6962)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]