Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ðiều gì đây?

19/01/201107:13(Xem: 6598)
Ðiều gì đây?

TỪ NỤ ĐẾN HOA

(FROM NOVICE TO MASTER
Thiền sư: Soko Morinaga - Biên dịch: Thuần Bạch Ngọc Bảo
Nhà Xuất Bản: Thanh Niên 2007

Phần ba: THIỀN SƯ 



Ðiều gì đây? 

Kể cho quý bạn nghe những kinh nghiệm trong những ngày đầu tu tập rồi, bây giờ tôi xin chia xẻ vài kinh nghiệm mới đây hơn, khi vai trò đã đảo ngược và tôi đã trở thành một vị thầy. Chia xẻ những câu chuyện này, điều quan trọng đối với tôi không phải là cho đạo Phật được hưng thịnh hay Thiền tông được phổ biến toàn thế giới này, mà nhiều hơn là cho mỗi người trong chúng ta có thể sống cuộc đời này một cách toàn vẹn, trong một ý nghĩa chân thật nhất, cho đến ngày nhắm mắt lìa đời, trong sự mãn nguyện và an bình nơi tâm. Chính trong niềm hi vọng này mà tôi đã đi thuyết giảng. 

Một thanh niên trẻ có họ với tôi, còn trong lứa tuổi đôi mươi, một hôm đã đến thăm tôi với một điều thắc mắc. Làm việc trong một hãng mậu dịch, anh thường có cơ hội tiếp đón khách hàng từ các nước khác, và qua những câu chuyện trao đổi thân mật, những người khách này thường hỏi về tôn giáo của anh. Anh bảo khi trả lời họ là anh không có tôn giáo gì cả, những vị khách ấy có vẻ phản ứng một cách ngờ vực. 

“Có vẻ như những người ngoại quốc ấy xem tôn giáo là rất quan trọng,” anh nhận xét, “trong khi những người Nhật chúng ta lại chẳng biết gì cả. Thật sự là những người trẻ tuổi như chúng con đây chỉ tiếp xúc với tôn giáo qua những tang lễ, ngoài ra con không cảm thấy nó cần thiết gì cả. Thầy nghĩ sao, với cảm nghĩ như vậy đó, tôn giáo có còn là quan trọng không?” 

Ðiều anh ta hỏi cơ bản là như thế này: tôn giáo là về cái gì đây? 

Trong tiếng Nhật, chữ tôn giáo gồm có hai nghĩa “chính” (hay là “gốc”) và “dạy dỗ”. Vì vậy, tôi nói với anh ta, “tôn giáo là ở ngay gốc của cái mà chúng ta gọi là đời sống. Ta có thể nói rằng có vô số những điều dạy chúng ta trong đời và tôn giáo là cái chính thống và cơ bản nhất trong những điều dạy này.” 

Khi anh chàng trẻ tuổi này nghe giải thích như vậy, anh nói,” Như vậy có nghĩa là tôn giáo là một cách căn bản nhất để nghĩ về cuộc đời, phải không? Nói cách khác, mình có thể diễn dịch nó như là một “nhân sinh quan” được không?” 

Tôi nói với anh rằng có thể nói như vậy, nhưng tôi cũng hỏi anh về nhân sinh quan của anh như thế nào. 

“À, con nghĩ rằng mục đích cuộc đời con người là xây dựng một cái gì đó bằng nỗ lực của chính mình,” anh trả lời. 

Ðó cũng là một quan điểm về cuộc đời. Trước đây, chính tôi cũng đã từng có lúc nghĩ như vậy. Trong những ngày còn son trẻ, tôi đã tin tưởng rằng làm con người tức là có khả năng lấy được hay thụ đắc được điều gì đó. 

Có những người có thể chạy đua đến hơn bốn mươi cây số. Người ta biết rằng nếu luyện tập thân thể thì sẽ có được sức mạnh thể lực; sự phát triển thể lực có thể được thực hiện trong một hạn tuổi nào đó . Bằng sự học tập, bạn có thể học được bất cứ cái gì bạn muốn. Bạn có thể tích lũy những kinh nghiệm của mình. Nếu đủ nỗ lực, bạn có thể có thêm nhiều bạn bè, kiếm được người yêu. Bạn có thể lập gia đình, tạo mãi tài sản, xây nhà để ở. Trong cuộc đời, có một thời kỳø bạn cảm thấy thế giới như ở trong tay bạn, một thời kỳ trong đó quan điểm hay mục đích của cuộc đời là “xây dựng một điều gì đó qua nỗ lực của chính mình” có thể thích hợp. 

Thế rồi sau đó, khi bạn già đi, bạn cần phải có kính đeo mắt để đọc sách, tai bạn bắt đầu ù đi, răng lung lay dần. Khi một đứa bé ở tuổi mẫu giáo mất một cái răng, nó sẽ có một cái răng khác tốt hơn nữa mọc ra, nhưng khi một người lớn mất răng, thì cái răng đó sẽ mất mãi mãi! Tử thần sẽ đến, cướp đi những người bạn thân thiết nhất của bạn. Những đứa con mà bạn đã hi sinh nhường cơm xẻ áo sẽ ra đi rời tổ ấm của gia đình. Rồi tuổi về hưu xế chiều đến, công việc mà bạn đã từng bỏ bao nhiêu công sức vào đó cũng phải bỏ đi. Bạn bắt đầu quên đi những điều bạn tưởng đã học được. Bạn sẽ mất đi những bắp thịt rắn chắc mà bạn đã cố công xây đắp, và chúng cũng ra đi không bao giờ trở lại. Dù cho một người có nhìn cuộc đời như thế nào chăng nữa, họ cũng sẽ cảm thấy thật thấm thía rằng cuộc đời con người không phải là một điều gì có thể thêm vào, mà chỉ là mất đi. 

“Khi thời kỳ đó đến, quan điểm về cuộc đời ấy của anh có còn giúp gì được anh không?” Tôi hỏi người bà con trẻ tuổi của tôi. 

Anh chàng trông có vẻ hơi ngượng ngịu khi cúi đầu xuống, thú nhận rằng có lẽ anh đã hơi tự kiêu quá, và có lẽ cũng nên ít nhất tìm hiểu xem tôn giáo nói cái gì. Anh còn xin tôi hướng dẫn cho anh nữa. 

Tất cả mọi người chúng ta đều hay dựng nên những quan điểm của riêng mình tùy theo tuổi tác và hoàn cảnh đến trong đời sống, từ đó có những lối sống biến đổi và phức tạp khác nhau. Tôn giáo, tuy vậy, không phải là một nhân sinh quan có giá trị chỉ trong một thời gian nào đó. Ðó là một giáo pháp luôn luôn dùng được trong mọi thời, luôn luôn đúng thực, không phân biệt tuổi tác và hoàn cảnh. 

Mọi hiện tượng trên thế gian này đều thường xuyên thay đổi; tất cả đều trải qua một thời đểø trưởng dưỡng (thành), một thời để bảo trì (trụ), và rồi trở về với hư không … sinh, lão, bệnh, và tử. Không một cố gắng nào có thể làm cho bạn tránh được diễn biến của sự lão hóa. Không một nỗ lực nào có thể làm cho bạn tránh khỏi cái chết. Những gì tích lũy được rồi sẽ mất đi, những gì có sinh rồi sẽ có diệt, những gì được xây dựng lên rồi cũng sẽ bị tiêu hủy. Một quan điểm về bản chất của cuộc đời là một quan điểm giúp chúng ta vượt qua được những đau khổ khi chúng ta phải đối mặt với chúng. 

Tôi tin tưởng tự đáy lòng, rằng cái mà chúng ta gọi là tôn giáo chính là điều quan trọng nhất cho con người. Tôi không thể nhấn mạnh đủ, rằng mục tiêu tối thượng của tôn giáo, dù chúng ta gọi đó là giác ngộ hay là tâm bình an, vẫn là làm sao cho mỗi người được sống trong sự an bình, được sống một đời đầy đủ và toại nguyện. 

Hàng năm tôi đều đi Hokkaido để thuyết giảng, và sau một buổi nói chuyện trong một cuộc họp UNESCO ở Sapporo, ông chủ tịch đến tìm tôi nhận xét rằng: “Chúng tôi hân hạnh được nghe thầy diễn thuyết một bài rất dài và hữu ích, nhưng tôi già rồi, không thể nào nhớ hết một bài dài như thế được. Hơn nữa, tôi cũng đã là một Phật tử rồi; mỗi buổi sáng trước khi đi làm và mỗi buổi tối khi về nhà tôi cũng đều thắp hương bàn thờ và tụng một bài kinh.” 

“Vấn đề là, tôi bị bắt buộc phải giải thể, từng cái một, số lớn những công ty tôi đang quản lý, và điều này làm cho tôi bị xáo trộn rất nhiều. Thế thì, Lão sư,” ông nói thẳng thừng, “Tôi không muốn nghe diễn thuyết dài dòng. Tôi muốn thầy nói cho tôi, chỉ trong một chữ, làm sao tôi có thể an được cái tâm đang xáo trộn của tôi.” 

Những vị cao niên đôi khi thật khó tính, phải không bạn? Tôi đã bỏ công diễn thuyết thật trọn vẹn vấn đề đó, bây giờ ông lại muốn chỉ tóm lại trong một chữ thôi! 

Tôi trả lời bằng cách hỏi ông khi thắp hương và tụng kinh trước bàn thờ ông cầu nguyện cho ai. 

“Thì, dĩ nhiên là, nhờ tổ tiên mà tôi mới có mặt ở đây,” ông trả lời. “Nên tôi thắp nén hương để tỏ lòng biết ơn tổ tiên và Phật tổ.” 

“Trong trường hợp đó”, tôi bảo ông, “bắt đầu từ đêm nay, hãy thắp hai nén hương. Một nén để tỏ lòng tri ân tổ tiên, như ông vẫn thường làm. Một nén kia để thắp cho cái xác của ông.” 

Chúng ta thường xem sự sống của mình là một điều đương nhiên, và như thếù hay bị lầm lạc khi hoàn cảnh có những vấn đề, và bị mê mờ không phán đoán được cho đúng thực. Nhưng mặt khác, khi nhìn vào cái chết của một người khác, chúng ta lại rất bén nhậy với sự mong manh của mọi sự trên đời này. 

Nếu cùng với những suy tưởng đó mà chúng ta nhìn vào xác thân của mình, có lẽ chúng ta sẽ không còn muốn để cho mình bị lôi cuốn trong những dây mơ rễ má của các vấn đề. Chúng ta có thể tự giải thoát mình và quyết định hành động đúng vào căn bản của những vấn đề, vào gốc rễ của chúng. Ðó là điều tôi ám chỉ khi tôi bảo vị cao niên ấy ngày đêm thắp một nén hương cho xác của chính mình. 

Sau khi chấm dứt một bài giảng, tôi thường yêu cầu mọi người hãy quên đi tất cả những gì tôi đã nói. Ðó là bởi vì chúng ta hay có khuynh hướng thu thập những bài giảng chỉ như những tài liệu, mang chúng về nhà, rồi đem những trích dẫn từ đó ra làm nguyên liệu để chỉ trích những môi trường chung quanh chúng ta. Ðiều trở thành cái nhân của sự tranh cãi không phải là trí tuệ; nó không khác gì mầm mống gieo trồng cho sự than phiền và bất mãn. Có nhiều trường hợp, chúng ta càng cảm thấy mình biết nhiều một vấn đề, càng cảm thấy bất mãn và bực bội hơn. 

Những kiến thức thu lượm được trong vấn đề tôn giáo là không có giá trị gì cả. Tôn giáo, nói cho tới cùng, là một điều phải tự kiểm chứng lấy qua sự thực hành. 

Có nhiều người sẵn sàng muốn theo học những kỹ thuật giúp cho họ sống trong cuộc đời. Nhưng người muốn tìm cách xác định gốc rễ đời sống của họ và vượt lên khỏi những kỹ thuật để đi vào cái căn bản -- tới tôn giáo đích thực -- là cực kỳ hiếm hoi. Hiện trạng đó tôi thấy thật đáng tiếc vô cùng. Vì lẽ đó tôi không thể nào không thúc dục bạn đừng đánh giá cuộc sống hàng ngày của mình trên căn bản những điều bạn tưởng là đã biết, trên căn bản những tài liệu thu thập được. Tôi muốn bạn thức tỉnh thấy Phật tính trong vạn pháp và đi tìm một lối sống chân chính. Nhưng đừng có rơi vào sai lầm: bạn có thể trở thành một hạng người bất mãn hay thành một vị Phật giác ngộ, điều đó hoàn toàn tùy thuộc nơi bạn, hoàn toàn tuỳ thuộc vào những hành động thực tế của chính bạn. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5078)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4097)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4692)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4153)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3598)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6880)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6954)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5051)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]