Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Tâm Tư Không Ngừng Nghĩ - Tâm Thức Suy Tư Liên Tục

16/01/201107:05(Xem: 10076)
07. Tâm Tư Không Ngừng Nghĩ - Tâm Thức Suy Tư Liên Tục

 

TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH:
TÂM TƯ KHÔNG NGỪNG NGHĨ – TÂM THỨC SUY TƯ LIÊN TỤC

Nguyên tác: The Restless Mind - The Constantly Thinking Mind
Tác giả: Remez Sasson - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Khuynh hướng tự nhiên của tâm thức là không ngừng nghĩ. Suy nghĩ dường như là một hành động tiếp diễn liên tục. Tâm tư không ngừng nghĩ làm cho tư tưởng đến và đi không ngớt từ sáng đến tối. Chúng làm cho chúng ta không có một thời khắc nào ngơi nghĩ. Hầu hết những tư tưởng này một cách chính xác là không được mời đến; chúng chỉ đến, chiếm cứ sự chú tâm của chúng ta trong một lúc, và rồi biến mất.

Bản chất thật (thể tính) của chúng ta giống như bầu trời, và tư tưởng là những đám mây. Những đám mây giăng ngang bầu trời, che khuất thể tính chúng ta một lúc rồi biến đi. Chúng thì không thường trụ. Tư tưởng chúng ta cũng như vậy. Do bởi sự di chuyển của không ngừng chúng che dấu bản chất thật của chúng ta, thể tính của chúng ta, chân tâm của chúng ta, và rồi chúng biến đi để chỗ cho những tư tưởng khác.

Tư tưởng giống như những làn sóng trên đại dương, luôn luôn ở trong tình trạng chuyển động, không bao giờ đứng yên. Những tư tưởng này sinh khởi trong tâm tư chúng ta thông qua nhiều lý do. Có một khuynh hướng trên phần vụ của tâm thức để phân tích bất cứ điều gì nó tiếp xúc. Nó thích so đo, suy luận, và đặt câu hỏi. Nó say mê liên tục trong những hành vi này.

Tâm thức chúng ta có một loại dụng cụ thanh lọc, cho phép nó chấp nhận, thu nhận những tư tưởng nào đấy, và từ chối những tư tưởng khác. Đây là lý do tại sao tâm thức một số người nào đấy bị chiếm cứ với những tư tưởng thuộc một chủ đề nào đấy, trong khi những người khác thậm chí không nghĩ về những chủ đề tương tự.

Tại sao một số người bị lôi cuốn bởi bóng đá trong khi những người khác thì không? Tại sao một số người ngưỡng mộ một ca sĩ nào đấy và những người khác thì không? Tại sao một số người suy nghĩ liên tục về một chủ để nào đấy và những người khác chẳng bao giờ nghĩ đến? Tất cả những điều ấy thông qua hay tùy thuộc vào bộ phận thanh lọc nội tại này.

Đây là một dụng cụ tự động vô tư. Chúng ta không bao giờ dừng lại và nói với những tư tưởng nào đấy “hãy đến” và với những tư tưởng khác chúng ta nói “đi chỗ khác” Nó là một hành vi tự động. Dụng cụ thanh lọc này được xây dựng qua năm tháng của cuộc sống. Nó là và nó được hình thành một cách liên tục bằng sự gợi ý và từ ngữ của những người chúng ta gặp, và như một kết quả của những kinh nghiệm hằng ngày.

Mỗi sự kiện, xãy ra hay từ ngữ có một tác động trên tâm thức, mà nó sản sinh những tư tưởng phù hợp. Tâm thức giống như một nhà máy tư tưởng, hoạt động trong những phiên ngày và đêm, sản xuất những tư tưởng.

Những hoạt động này của tâm thức không ngừng nghĩ, bận rộn với sự chú ý của tâm thức chúng ta khắp mọi thời mọi lúc. Bây giờ sự chú ý của chúng ta là trên tư tưởng này và rồi thì trên một suy tư khác. Chúng ta tiêu phí rất nhiều năng lượng và chú ý đến những tư tưởng thoáng qua. Hầu hết những tư tưởng ấy là không quan trọng. Chúng chỉ làm lãng phí thời gian và năng lượng của chúng ta.

Đây là nô lệ. Nó giống như một năng lực ngoại tại luôn luôn đặt một tư tưởng trước mặt để chúng ta chú ý tới. Nó giống như một người chủ tàn nhẫn liên tục giao việc cho chúng ta làm. Không có tự do thật sự. Chúng ta chỉ thụ hưởng tự do khi chúng ta có thể làm yên tĩnh tâm hồn và lựa chọn suy tư của chúng ta. Đấy là tự do, khi chúng ta có thể quyết định tư tưởng nào để suy nghĩ và suy tư nào cần loại bỏ. Chúng ta sống trong tự do, khi chúng ta có thể dừng lại dòng chảy liên tục của những tư tưởng.

Dừng lại dòng chảy liên tục của tư tưởng có thể xem như không thể làm được, nhưng liên tục rèn luyện và thực tập với những sự thực hành thiền định và thiền quán (tập trung và phân tích), cuối cùng sẽ đưa đến điều kiện này. Tâm thức giống như một con vật chưa được thuần hóa. Nó có thể được dạy sự tự giác và vâng lời đến một năng lực cao hơn. Chỉ và quán (tập trung và phân tích) chỉ dẫn chúng ta một thái độ rõ ràng và thực tiển mà chúng ta, bản chất thật nội tại, là năng lực kiểm soát này, chúng ta là chủ nhân ông của tâm thức chúng ta.

The Restless Mind - The Constantly Thinking Mind
By Remez Sasson
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 22/05/2010
http://www.successconsciousness.com/index_00007d.htm

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 6365)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6392)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5534)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3861)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 3952)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4732)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4745)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5120)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
22/01/2021(Xem: 5264)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6541)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]