Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Điều Phục Tâm

06/01/201111:11(Xem: 9926)
6. Điều Phục Tâm

 

6
ĐIỀU PHỤC TÂM

 

Nếu bạn lơlà trong việc bảo vệ tâm
Bạn không thểđóng cửa đau khổ

và cũng khôngthể mở cửa hạnh phúc

Đừng làm nhữngđiều phi đạo đức

Hãy làm nhữngđiều đạo đức hoàn hảo

Hãy điều phụctâm của bạn

Đây là giáo lýcủa Phật.

KHI CHÚNG TÔIcùng nhau trì tụng đoạn kệ này của Đức Phật và như ngài Kirti Tsenshab Rinpochegiải thích, chúng tôi nhớ rằng đoạn kệ có chứa Tứ Diệu Đế. Bạn đang chịuđựng sựkhổ thật sự (Đế đầu tiên)–chẳng ai ước muốn khổ – và bạn cần đạt hạnh phúc tốithượng chấm dứt mọi khổ đau (Đế thứ 3), điều này tuỳ thuộc vào việc chấmdứttoàn bộ các nhân đích thật của khổ (Đế thứ 2); và việc đạt được điều nàytùythuộc vào việc làm cho toàn bộ con đường Đạo chân thật trở thành hiện thực (Đếthứ bốn).

Điều cốtlõi của đoạn kệ này là khuyên không can dự vào bất kỳ hành động phi đạo đức nàocả. Nếu nghĩ rằng nguồn gốc của khổ đau và các vấn đề của cuộc sống là từ kháchquan bên ngoài thì ý nghĩ đó chính là vấn đề. Không coi tâm là nguồn gốccủacác vấn đề và đổ lỗi cho các tác nhân bên ngoài như người khác, đối tượng khác,thái độ đó chỉ tạo thêm nhiều vấn đề hơn. Suy nghĩ theo kiểu này – và cũng chorằng hạnh phúc đến từ bên ngoài – là chúng ta chẳng đếm xỉa gì tới tâm cả. Tâmnày từ vô lượng kiếp trước đã không được điều phục giờ đây vẫn để y nguyên nhưvậy, vẫn đang không được điều phục. Chẳng có gì tốt hơn, chẳng có gì thay đổi.Chúng ta liên tục tạo ra nhân đau khổ cho các kiếp sau và tạo ra các vấnđềngay đây trong đời này.

Thật tốt khiliên hệ đoạn kệ này với các vấn đề trong qúa khứ, đặc biệt có hiệu quả khi ápdụng “ điều phục tâm của bạn” đối với sự kiêu mạn, sân hận, ganh tị, hammuốnvà sự vô minh dày đặc. Điều phục những vọng tưởng (phiền não) này là giáo lýcủa Đức Phật. Không điều phục chúng thì không phải giáo lý của Đức Phật –nóicách khác, không làm gì để giải quyết vọng tưởng nhưng lại bận rộn làm nhữngviệc khác và coi đó là tu tập tâm linh thì không phải là giáo lý của ĐứcPhật.

Vọng tưởng làmcho tâm không vui, không an, không thuần phục. Mặc dù các hành động của chúngta trông giống như Pháp và được gọi là “Pháp” hay “tu tập tâm linh” nhưng nếuchúng không phá hủy vọng tưởng thì chúng không phải là giáo lý của Đức Phật. Cómột định nghĩa về Pháp là “bất kỳ thứ thuốc nào mà chữa trị được vọngtưởng”. Nếu có một hành động được thực hiện dưới danh nghĩa Thiên Chúa giáo haymột tôn giáo nào khác mà là thuốc chữa trị vọng tưởng – điều phục sân, tham, sivà ích kỷ – thì đó là Pháp. Bất cứ cái gì mà không phải là thuốc chữa trị vọngtưởng thì không phải là Pháp. Như đức Dalai Lama có nói, Pháp là bất cứ điều gìmàsửa chữa được hay an định được tâm. Khi có một đồ dùng nào bị hư thì việc sửachữa nó là tốt bởi vì làm cho bạn vui và nó sẽ là phương tiện có ích chocuộcsống của bạn và của người khác. Cũng vậy, Pháp là sửa chữa tâm. Phương pháp nàomà không phá hủy được vọng tưởng thì không an định được tâm. Không có cách nàocải thiện được tâm mà không loại trừ vọng tưởng. Vọng tưởng cần phải được loại trừ.

Để mang lạihạnh phúc cho bản thân và cho những người khác, Pháp phải là thuốc chữa vọngtưởng. Nếu Pháp hỗ trợ vọng tưởng thì không cần biết chúng ta tu tập baonhiêu chúngta sẽ không thấy có sự cải thiện ở trong tâm; ngược lại, tâm sẽ trở nên mỗi lúcmột tồi tệ hơn: càng không được thuần phục hơn, càng khó khăn hơn. Dù chúng tacó thể luôn đang nghe giảng Pháp, thuyết Pháp, đọc Kinh điển, hay đang sốngtrong một trung tâm Phật Pháp, thậm chí cả cuộc đời luôn có liên hệ với Pháp,nhưng nếu vọng tưởng gia tăng thì việc tu tập tâm linh hóa ra là đang hỗtrợcho vọng tưởng thay vì phá huỷ chúng. Nếu kiêu ngạo, sân hận, ham muốn và nhữngthứ tương tự gia tăng thì việc tu học Pháp của bạn đang tạo ra thêm nghiệp bấtthiện thay vì tịnh hóa những nghiệp bất thiện có sẵn trước.

Để nhận đượchạnh phúc từ Pháp, việc tu tập của bạn phải làm sao phá hủy được vọng tưởng. Vídụ như dược phẩm, nếu làm cho bệnh phát sinh hay nặng thêm thì thuốc đó không chữađược bệnh mà còn làm lệch hướng việc chẩn và trị bệnh. Thuốc là thứ dùngđể trịbệnh chứ không làm bệnh trầm trọng hơn.

Câu “điều phụctâm của bạn” chỉ vỏn vẹn mấy chữ, nhưng ý nói là phải giải quyết toàn bộcác chechướng (quan niệm sai-ND) từ việc thấy những khuyết điểm của vị thầy chotớinhững quan niệm nhị nguyên vi tế về ba tri kiến liên quan đến giai đọan chuẩnbị màu trắng, giai đọan phát triển màu đỏ, giai đoạn thành tựu màu đen và ngaycả che chướng sau cùng và vi tế nhất là ngăn cản sự thành tựu tâm giác ngộ(Phật tâm). “Điều phục tâm của bạn” giải quyết toàn bộ các quan niệm saitráinày.

Câu cuối củabài kệ nói “Đây là giáo lý của Đức Phật” bởi vì điều phục tâm bạn là nguồn gốccủa hạnh phúc. Điều phục tâm bạn là giáo lý chính của Đức Phật. Từng mỗilời màĐức Phật dạy là nhắm tới việc điều phục tâm riêng của mỗi chúng sinh; ngoài rakhông có mục đích nào khác. Từng mỗi lời trong tất cả 84.000 Kinh điển –Kinhcủa Tiểu thừa, Đại thừa, Kim cang thừa – là nhằm điều phục tâm.

Hãy nhớ đến sựưu ái của Đấng Thế tôn Đại Từ Đại Bi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, khi giảng dạy toànbộ các giáo lý của cả hai đường Đạo: nhân thừa và quả thừa. Đức Phật đã phát lộcon đường hoàn hảo đưa đến giác ngộ thông qua nhiều mức độ giảng dạy khác nhauphù hợp với các căn cơ tâm thức của chúng sanh hữu tình. Giờ đây chúng ta có tựdo và cơ hội để lắng nghe, soi rọi và thiền định trên đường đạo vô cấu này;chúng ta có thể tạo ra nhân vô cấu cho bất kỳ mức độ hạnh phúc nào chúngta muốn.Được như vậy là nhờ vào sự ưu ái của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi Ngài bannhững lời giảng.

Đức Thích CaMâu Ni Phật khai mở con đường dẫn dắt chúng ta đến hạnh phúc; con đường theo đóchúng ta có được tự do để hiểu và tạo ra nhân để có hạnh phúc trong các đời sau,giải thoát và giác ngộ. Ngài giúp chúng ta phát triển tiềm năng của chúng ta,tức Phật-tánh của chúng ta. Gặp được Phật Pháp, tu tập theo đó, chúng tacó thểphát triển Phật-tánh của chúng ta và nhờ vậy mà đạt giác ngộ.

Bằng cách thiềnđịnh con đường mà Đức Phật phát lộ, từng bước chúng ta có thể phát triểnPhật-tánh của mình và do đó có thể hoàn thành ước nguyện cứu giúp chúng sinh hữutình. Chính nhờ sự ưu ái của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà chúng ta có thểthànhtựu trí huệ siêu việt của tâm, năng lực toàn triệt và đại bi viên mãn vìlợiích cho tất cả chúng sinh hữu tình.

Mọi sựbao gồm cả hạnh phúc lẫn khổ đau đều tùy thuộc ở tâm. Nếu không điều phục tâmthì khổ đau nổi lên; chính tâm sản xuất khổ đau này. Bằng việc điều phụctâm,bạn hưởng được hạnh phúc. Đây là lý do tại sao hạnh phúc của chúng sinh hữutình tùy thuộc vào sự hiện hữu của các giáo lý của Đức Phật.

Bởi vì mọi sựđều tuỳ thuộc vào chính tâm của chúng ta, nên chúng ta phải điều phục tâm mình.Chúng ta phải loại bỏ những suy nghĩ sai trái, chúng là nhân của khổ đauvàchúng mang vấn đề đến cho bản thân chúng ta và cho vô lượng chúng sinh khác,đời này và liên tục các kiếp sau. Nếu những suy nghĩ sai trái được loại bỏ thìchỉ còn có hạnh phúc, không còn nhân của các vấn đề, không có kẻ sáng tạo của vấnđề. Càng loại bỏ những quan niệm sai trái thì càng có hạnh phúc.

Che chở tâmcủa bạn

Trong tác phẩmBồ Tát Hạnh, Shantideva giải thích:

Cọp, sưtử, rắn, kẻ thù, người canh giữ địa ngục, các mụ phù thủy và kẻ ăn thịt người,tất cả đều bị trói lại chỉ bằng một việc là cột giữ tâm này.

Kiềm giữ tâmkhỏi suy nghĩ bất thiện, không cho phép tâm chạy theo cơn giận hay ham muốn, vôminh vân vân …, có nghĩa rằng bạn ngừng tạo ra nghiệp xấu ác. Khi bạn ngăn ngừatâm bạn khỏi bị vọng tưởng lôi kéo thì bạn không tạo ra nghiệp bất thiệndo vậybạn không chịu đựng quả mà các chúng sinh khác hại bạn và gây nguy hiểm cuộcsống của bạn.

Ví dụ,Devadatta luôn ganh tị cố tìm cách hãm hại Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Vàomột ngày, khi Đức Phật đang đi khất thực, Devadatta đem một con voi điêntớitấn công Đức Phật. Tuy nhiên thay vì gây nguy hại Đức Phật, con voi trở nênhoàn toàn bị thuần phục ở trước mặt Ngài. Tôi cũng nghe rằng con muỗi không baogiờ chích ngài Song Rinpoche. Và có một câu chuyện tương tự về thánh St.Francis ở Assisi, nước Ý; người sống cùng thời đại với Milarepa, vị đại Hànhgiả du-già Tây tạng, người đạt giác ngộ trong một đời người ngắn ngủi.

Có một con chósói sống trong rừng, nó hại nhiều người. Khi thánh Francis nghe được chuyện đó,ngài nói: “Tôi sẽ đến nói chuyện với con chó sói”. Mặc dù có người khuyên đừng đinhưng ngài vẫn giữ quyết định.

Thánh Francisđi vào rừng. Khi con chó sói đến gần ngài, thay vì hại ngài, nó bị ngài khuấtphục hoàn toàn. Giống như một con chó nuôi đi theo chủ, con chó sói trở nênthuần phục đến nằm bên cạnh và liếm chân ngài. Thánh Francis nói với conchósói rằng ngài sẽ cho nó thực phẩm và nó không được cắn người nữa. Từ đó trở đi,con chó sói không còn tấn công người dân.

Nhục thể củaThánh Francis hiện còn giữ ở Assisi, gần Trung tâm Lama Tsong Khapa ở Ý.LamaYeshe và tôi đã viếng Assisi. Lama Yeshe đã thiền định một lúc ở ngôi mộnơithân thiêng liêng của thánh Francis lưu ở đó. Có một thác nước gần Assisi và người ta nói rằngnếu nước bị cạn thì sẽ rất xui xẻo cho nước Ý. Thánh Francis có một đệ tử nữ tuvà người này có đến ba trăm đệ tử. Trong lúc ngài Francis còn sống, một trongnhững hang động bị nước từ trên mái nhỏ xuống. Một số đệ tử than phiền rằng họchẳng thiền định được vì tiếng nước rơi. Thường ngày thánh Francis gọi các đồvật là “em gái”, “em trai”. Ngài nghe học trò than phiền như vậy, liền đến hangđộng đó và nói với nước: “Em gái, hãy ngừng rơi vì học trò của tôi chẳngthiềnđịnh được”. Nước liền ngưng rơi.

Những câuchuyện như vậy là rất thông thường như trong các chuyện kể về cuộc đời các vịBồ tát. Nhiều câu chuyện kể về các hành giả du già Ấn Độ và Tây tạng yêucầunước sông ngừng chảy để họ đi qua sông sau đó nước chảy trở lại. Ở Tây tạng khicó trận lụt đang dâng nước đến gần tu viện của Bồ tát Jampa Monlam, ngàiliềnviết lên một tảng đá câu “nếu đúng sự thật tôi có bồ đề tâm thì xin nướchãythối lui”, rồi ngài đặt tảng đá ngay trước hướng nước lụt đang dâng đến;nướclụt lập tức rút đi. Những câu chuyện như vậy chứng minh được năng lực bồđềtâm, thiện tâm tối thượng.

Bằng việc cộtchặt tâm vào đạo đức, che chở nó khỏi vọng tưởng, bạn sẽ không tạo ra nghiệpxấu ác, nên sẽ không có gì nguy hại cho cuộc đời của bạn. Cũng vậy, do có bồ đềtâm, bạn sẽ điều phục được tâm mình. Cột chặt tâm bạn với đạo đức và tránh xanhững suy nghĩ phiền muộn thì giống như giam giữ hết tất cả những chúng sinh nguyhiểm như: cọp, rắn, kẻ gác cổng địa ngục, kẻ thù. Nếu bạn có bồ đề tâm ngay cảnhững hiểm họa thiên nhiên (động đất, núi lửa vân vân – ND) cũng không thể hại bạn;nhờ vào năng lực bồ đề tâm, bạn có khả năng kiểm soát được tai họa thiênnhiên.Bằng cách cột chặt một tâm này với bồ đề tâm, bạn ngăn cản được tất cả vô sốcon thú hung dữ và kẻ thù. Huấn luyện làm thuần thục một việc này thôi tức làtâm của bạn, bạn sẽ thuần hóa được tất cả những việc khác nữa.

Bạn không thểthực hiện được ý muốn giam hết tất cả các con thú hung dữ trên quả đất này vìbạn không thể sống mãi mãi. Và cho dù bạn sẽ không tái sinh ở quả đất này bạncũng sẽ tái sinh ra ở một hành tinh khác, chừng nào bạn còn nghiệp và vọngtưởng bạn sẽ gặp kẻ thù và thú hung dữ ở đó. Chừng nào tâm bạn chưa đượcđiều phụcthì luôn có sự hãm hại từ bên ngoài. Nhưng một khi tâm được điều phục, một khikhông còn sân hận trong giòng tương tục tâm thức thì sẽ không còn kẻ thùbênngoài. Khi nào cơn giận không thể nổi lên trong bạn thì bạn không còn tìm thấykẻ thù ở đâu cả. Kẻ thù bên ngoài chỉ xuất hiện khi có cơn giận ở bên trong.

Không vọngtưởng sẽ không có nghiệp bất thiện, cho nên sẽ không có ai hại bạn. Thêmvàođó, khi tâm bạn đạt được sự nhẫn-nhục-tự-tánh thì dù có ai đó chê bai, đánh haygiết bạn, bạn vẫn nhận ra được là không có kẻ thù bên ngoài. Khi bạn đạtđượcnhẫn nhục ba-la-mật (một trong sáu ba-la-mật) bạn sẽ thấy người khác là bạn tốtnhất của bạn ngay cả khi họ đang phê bình, đánh hay đang giết bạn. Chừngnàotâm bạn ở trong nhẫn-nhục-tự -tánh bạn lúc đó không thấy có kẻ thù bên ngoàiđang hại bạn mà chỉ có người đang làm lợi cho bạn. Nhưng ngay khi tâm thay đổi,chuyển sang giận dữ thì bạn thấy con người đó đang hại bạn.

Luận giảng Khaimở Cánh cửa Pháp có nói:

Có lợi gìđâu cho những lời dạy khác với lời dạy bảo vệ tâm?

Sẽ rất tốt khibạn nhớ điều này trong cuộc sống hàng ngày. Nếu bạn quên bảo vệ tâm của mìnhthì có ích gì đâu với các truyền thống giữ giới khác? Nếu tâm không đượcbảo vệbạn không thể chận đứng được khổ đau và các vấn đề của bạn. Dù cho bạn có thểtu tập hàng trăm việc khác nhưng nếu bạn bỏ qua việc tu tập quan trọng nhất này(che chở tâm – ND) thì bạn không thể chận đứng các vấn đề và không thể đạt hạnhphúc đặc biệt là hạnh phúc tối thượng. Rất cần để nhớ điều này. Có ngườitrì tụngrất nhiều kinh cầu nguyện, hàng triệu mật chú suốt ngày nhưng nếu họ quên khôngtự che chở tâm thì việc tu tập hằng ngày trở nên lãng phí vô ích. Tâm bạn lànguồn gốc của tất cả khổ đau và hạnh phúc riêng của bạn. Nếu bạn lơ là việc chechở tâm thì bạn không thể đóng cánh cửa vào khổ đau và cũng không thể mởcánhcửa vào hạnh phúc.

Ở phương tây cónhiều luật lệ: bạn không thể làm điều này, bạn không thể làm điều kia. Đôi khitôi nghĩ rằng đã có quá nhiều luật. Có một lần tôi tới Sydney ngụ trongmột nhà có hồ bơi và phòngxông hơi nóng. Có vài người đang chơi ở hồ, nhảy từ bục gỗ cao. Người láng giềngbực mình. Họ than phiền nhà chúng tôi quá ồn và họ gọi cảnh sát.

Tôi đang ởtrong phòng. Tôi không thấy bên ngoài nhà nhưng tôi nghe có cảnh sát tới. Thấykhông có gì, cảnh sát bực bội bỏ đi. Người láng giềng trước đó báo cảnh sát lànhững người ở trong hồ bơi quấy nhiễu họ. Cảnh sát cho rằng người láng giềngnói vô lý, uổng công họ từ ngoài thị trấn lái xe vào. Cũng ngay buổi chiều hômđó trẻ con nhà láng giềng đã chơi đùa ầm ĩ.

Không cần biếtcó bao nhiêu luật lệ đã được đặt ra; chừng nào việc bảo vệ tâm không được chú ýở trường tiểu học, ở đại học hay trong nếp sống văn hóa thì luôn có các vấn đềxảy ra, tiếp tục xảy ra. Mọi người phải che chở tâm của mình. Thay vì nói “mỗingày ăn một quả táo thì bác sĩ không đến nhà” chúng ta có thể nói “mỗi ngày cóche chở tâm, cảnh sát không đến nhà”!

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/07/2015(Xem: 14152)
Hề chi một phận đời riêng Buông hơi nằm xuống mà nghiêng đất trời Thiếu ta, đời cũng vậy thôi! Ta là hạt bụi giữa đời bao la..
01/07/2015(Xem: 24560)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 20819)
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là
01/07/2015(Xem: 11816)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
29/06/2015(Xem: 9696)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8295)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12313)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 31748)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 13270)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
23/06/2015(Xem: 12515)
Hơn hai mươi năm trước, khi đọc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nói về tiếng chuông Chùa Hàn San ở Tô Châu bên Trung Hoa, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao thơ Đường có không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác, vậy mà bài thơ chỉ bốn câu này lại gây ra bao nhiêu cuộc bút đàm tốn bao nhiêu giấy mực. Hay tại vì ngôi Chùa ở bến Cô Tô này đã quá nổi tiếng chăng? Nhưng đã ngờ thì phải cố mày mò tìm cho ra lẽ. Tôi tìm đọc thêm những câu chuyện chung quanh quả Đại hồng chung và tiếng chuông Hàn San. Nhiều huyền thoại đọc thật thú vị nhưng sao thấy nó cứ thực thực hư hư! Trong số ấy có một câu chuyện nói rằng, tiếng chuông chùa Hàn San có thể ngân vang rất xa, xa
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]