Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Buông Bỏ Cuộc Đời Này

06/01/201111:08(Xem: 10365)
3. Buông Bỏ Cuộc Đời Này

 

3
BUÔNG BỎ CUỘCĐỜI NÀY

Lama Atishađã trả lời: “Hãy buông bỏ cuộc đời này trong tâm bạn!”

Lama Atisha

LAMA ATISHA,người đầu tiên viết luận giảng Lamrim với tựa đề Ngọn đèn Soi đường đến Giácngộ, là một tôn giả vĩ đại với kiến thức và thực chứng vô lượng, người giúp phổbiến Pháp hết sức sâu rộng.Ngài đã thành tựu ngũ minh (năm tri thức-ND) thểhiện trí huệ siêu việt, thiền định nhất tâm và luôn được nhiều hộ pháp bổn tônhộ trì. Ngài xây rất nhiều chùa, tu viện ở Ấn Độ, Tây Tạng và Nepal. Ngài thọbảy mươi hai tuổi (từ năm 982 đến năm 1054) trong đó có 17 năm ở TâyTạng.

Nhờ lòng tử tếcủa Ngài Lama Atisha khi viết Ngọn đèn Soi đường đến Giác ngộ mà giờ đâynhữngai đã gặp Lamrim sẽ không thể nhầm lẫn và biết mình bắt đầu ở đâu trên đường đạotừng bước đến giác ngộ. Những ai chưa gặp Lamrim sẽ không biết bắt đầu tu tậptừ chỗ nào. Dù một người đã nghiên cứu rất nhiều kinh luận nhưng nếu bạnhỏi họ“ông bắt đầu tu tập như thế nào?” thì họ không biết làm sao trả lời. Và nếu cótrả lời thì sẽ lầm lẫn trước thành sau, họ sẽ nói những phép tu tập ở khoảnggiữa trước khi bàn tới bước khởi đầu của đường đạo.

Chúng ta rất ưmay mắn, vì khi viết Ngọn đèn Soi đường đến Giác ngộ, Ngài Atisha đã hợpnhấtđược toàn bộ các con đường Kinh thừa và Tantra thừa của Đức Phật - Tiểu thừa, Đạithừa, Tantra thừa. Từ đó Ngài soạn thành một đường đạo trọn vẹn, một phép tutừng bước, và ai thực hành đều có thể đạt tới giác ngộ. Về phương diện giáo lý,luận giảng trình bày mọi việc rất rõ ràng, vấn đề duy nhất là, chúng ta khôngchịu tu tập.

Lama Atisha cónhiều học trò nổi tiếng : những người nổi tiếng ở Ấn Độ như tôn giả Bhumisara vàVua Mahapali, và ở Tây tạng, ngoài trưởng tử tâm linh là Dromtonpa còn có ba vịGeshe Kadampa: Gonpawa, Naljor Chaktri Chok và Jangchub Rinchen. Còn có nhiềuhọc trò khác nữa chẳng hạn như cháu trai của Vua Yeshe Od là Jangchub Od,Rinchen Zangpo, và Lotsawa Nagtso. Ngay cả những đệ tử của Lama Atisha cũng cóđược phẩm tính vô lượng như đã đề cập trong tiểu sử của họ.

Khi Lama Atishasắp qua đời, Geshe Naljor Chaktri Chok có nói với ngài: “Sau khi thầy qua đờicon sẽ hiến trọn đời mình cho thiền định”. Lama Atisha trả lời: “Hãy nêntừ bỏ tấtcả việc gì được coi là hành vi xấu”. Lama Atisha đã không nói rằng thiềnlàtốt, ngài không nói: “Ô! vâng, như vậy là tốt” thay vào đó, ngài nói “Hãy buôngbỏ việc gì được coi là hành vi xấu”.

Rồi NaljorChaktri Chok nói tiếp với Lama Atisha: “Thôi được, con sẽ thỉnh thoảng giảngPháp, thỉnh thoảng thiền định”. Lại lần nữa Lama Atisha lập lại câu trả lời nhưlần trước. Naljor Chaktri Chok suy nghĩ thêm rồi nói ra một đề xuất khác. Nhưngdù Naljor có nói gì, Lama Atisha vẫn giữ nguyên câu trả lời cũ. Cuối cùngNaljor Chaktri Chok hỏi: “Vậy con phải nên làm gì?” Lama Atisha đáp: “Hãy buôngbỏ cuộc đời này trong tâm”.

Khắc ghi lờidạy này trong lòng, Naljor Chaktri Chok đã vào rừng bách xù gần Tu việnReting, sống không khác gì một con thú ở trong rừng. Ở đây không đề cập đến tâmcủa ông ta – chỉ nói tới thân. Ông ta sống cô độc, không gặp ai cả và qua đời ởđó.

Dromtonpa

Dromtonpa làngười phiên dịch của Lama Atisha; Ngài sinh ra ở phía Bắc Lhasa, rất gầnvớiTolung, nơi sinh của Lama Yeshe. Đây là một nơi thiêng liêng ở đó Lama TsongKhapa đã thấy được Guhyasamaja và Mahakala. Và trong thời gian hành hương đếnTây tạng năm 1987 tôi (Lama Zopa Rinpoche) đã ban lễ quán đảnh Quán Thế Âm BồTát ở đó. Đây cũng là nơi các tu sĩ của Trường Cao đẳng Tantra sơ cấp học giáolý gốc tantra do tu viện trưởng dạy, học hát tụng lời cầu nguyện, và dự các kỳthi. Dường như Dromtonpa đã sinh ra rất gần nơi đó.

Đức Tara đã tiên đoán việc ra đời của Dromtonpa, Ngài là hiệnthân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Đức Tara tiên đoán Dromtonpa sẽ là người nắm giữPhật Pháp, tâm thiêng liêng của ngài sở hữu vô hạn năng lực hiểu biết Kinh điểncùng những thực chứng và Ngài linh kiến (thấy) được các hộ pháp bổn tôn với sốlượng không thể nghĩ bàn.

Trước khi đếnvùng Trung Tây tạng và trở thành người phiên dịch cho Lama Atisha, Dromtonpa đãsống ở vùng Kham, làm thị giả cho Lama Setsuen. Sau khi gặp Lama Atisha,Dromtonpa đã hỏi Ngài điều gì là phép tu tốt nhất trong số những thực hành màbản thân (Dromtonpa) đã làm. Dromtonpa đã kể cho Lama Atisha nghe về những phépthực hành của mình. Ngài cũng nói ra những nỗi cực nhọc khi phục dịch cho LamaSetsuen. Ban đêm Ngài phải mang vũ khí canh chừng đàn gia súc. Ban ngày Ngàiphải làm việc quần quật suốt ngày. Ngài đốt các đống lửa. Ngài đưa lưng để chobà vợ của Lama Setsuen ngồi lên vắt sữa. Có những lúc vừa mang vật nặng trênlưng, tay vừa xe dây thừng bằng lông gia súc, chân vừa đạp vừa phết bơlên tấm da súc khô để làm cho nó mềm đi. Trong nhiều năm Ngài đã làm việc nhưthế – nhiều việc cùng một lúc. Dromtonpa kể cho Lama Atisha biết mọi sự.LamaAtisha nói: “Trong số những điều ông đã làm thì những việc cực nhọc mà ông phụcdịch cho Lama Setsuen mới là Pháp thực sự”.

Dromtonpa chânthành dâng hiến cuộc đời cho Lama Atisha trong suốt mười bảy năm ròng. Từ lúcgặp Lama Atisha, Dromtonpa luôn luôn ở bên cạnh thầy. Hằng đêm ngài thắpđèn bơ dâng cho thầy, để thầy khỏi bị tối.

Dòng truyềnthừa của các Geshe Kadampa bắt đầu từ Dromtonpa. Ngài có nhiều đệ tử, trong đócó ba vị xuất sắc nhất, thường được biết là ba đệ tử chính; đó là Geshe Potowa,Geshe Chen-ngawa và Geshe Puchungwa; họ là những người nắm giữ Phật Phápvới vôlượng thực chứng .Sau khi thành lập Tu viện Reting vào năm 1057, Dromtonpa sốngthêm bảy năm nữa, tổng cộng ngài sống được năm mươi mốt tuổi.

Dromtonpa khôngphải là một tu sĩ mà là cư sĩ giữ năm giới nguyện. Khi quán tưởng các vịLamatruyền thừa của Lamrim, bạn hãy quán Dromtonpa là một người dân du mục Tâytạng, mặc áo chupa dày màu xanh làm bằng tấm da súc.

Dromtonpa luônluôn mặc quần áo cũ rách. Đôi khi ngài khoát vội lên người chiếc áo chuba khôngcó tay áo, rồi đi vào rừng bách xù. Cắm hai hay ba cái cọc vào nhau rồi choàngmột tấm đan bằng lông thú lên, như các dân du mục Tây tạng thường làm, Dromtonpangồi thiền định trong một chỗ nhỏ như vậy. Khi đi xuyên qua rừng, Dromtonpathỉnh thoảng trì tụng đoạn văn ngắn trích từ Bức thư gửi Bạn của Ngài LongThọ:

Được, mất,sướng, khổ, khen, chê, vinh, nhục những bát phong này không phải là chuyện củatâm tôi. Tất cả bát phong đó đối với tôi là giống nhau.

Ngài cũng trìtụng một đoạn trong quyển Bồ Tát Hạnh như sau: “Tôi là người đi tìm giảithoát.Tôi không muốn bị ràng buộc với việc thọ nhận sự cúng dường hay sự tôn kính”. Đôikhi ngài trì tụng cả đoạn, đôi khi ngài chỉ đọc câu đầu của đoạn văn. Trong khiđọc, ngài thường lắc đầu ; ý muốn diễn tả rằng ngài chẳng cần nhận vật dụng haynhận sự tôn kính nào cả.

Các GesheKadampa thường nói: “Đối với bản thân, Dromtonpa không cần sống một cuộcsốngkhổ hạnh, nhưng sở dĩ ngài làm vậy là để các đệ tử noi theo”.

Dromtonpa,người đã buông bỏ mọi hoạt động đời thường của thế gian, có lần được mờiđếnmột nơi có tên là Rong để cử hành lễ cúng dường Puja cho các tu sĩ. Ngàigọi PelgyeWangchuk là đệ tử của ngài đến và nói: “Lần này con đi. Ta không thể đi được.Ta ngồi ở đây, cố gắng buông bỏ cuộc đời này.”

Vào một ngày nọcó tu sĩ đi nhiễu vòng quanh tu viện, Dromtonpa gọi ông ta đến và nói: “Đinhiễu là tốt, nhưng thực hành Pháp thì tốt hơn”. Vị tu sĩ khi nghe vậy nghĩrằng: “Có thể lễ lạy tốt hơn”.

Khi thấy vị tusĩ lễ lạy, Dromtonpa lại nói: “Lễ lạy thì tốt nhưng thực hành Pháp thì tốthơn”. Sau đó, khi vị tu sĩ trì tụng lời cầu nguyện và thiền định, Dromtonpa lạinói câu đó lần nữa. Cuối cùng tu sĩ hỏi: “Vậy con nên làm gì?” Dromtonpalậplại ba lần: “Hãy buông bỏ cuộc đời này trong tâm ông. Hãy buông bỏ cuộc đời nàytrong tâm ông. Hãy buông bỏ cuộc đời này trong tâm ông.”

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2021(Xem: 7415)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5977)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 6889)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6844)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 6025)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 4126)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 4203)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4955)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4987)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5292)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]