Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Phần Dẫn Nhập

06/01/201111:06(Xem: 9903)
1. Phần Dẫn Nhập

 

1

PHẦN DẪNNHẬP

 

Giống như việc nhàonắn bột bằng tay
Chắc chắnbạn chuyển hóa được tâm bạn theo cách bạn muốn.

KHAI MỞ CÁNH CỬAPHÁP

NĂM 1974, khi đang ởtrong hang động trước đây là nơi Lawudo Lama ẩn tu trong vùng Solu Khumbu ,Nepal,tôi (Lama Zopa Rinpoche-ND) quyết định xem lại tất cả các kinh sách của ông.Hầu hết là kinh sách thuộc truyền thống Nyingma (cổ mật) liên quan đến việc tutập các hộ pháp bổn tôn (deity), nhưng có một luận giảng mà nó là nền tảng củacả bốn truyền thống Phật giáo Tây tạng; đó là tác phẩm “Khai mở Cánh cửaPháp: Giai đoạn Đầu của việc Tu Tâm trên đường Đạo từng Bước đến Giác Ngộ”.

Được coi như bộ tuyểntập các lời khuyên dạy của nhiều Geshes Kadampa, cuốn Khai mở Cánh cửa Phápđược biên soạn bởi Lodro Gyaltsen, một đệ tử của Lama Tsong Khapa và đồng thờilà đệ tử của Khedrub Rinpoche.Ngài Khedrub là một trong hai trưởng tử tâm linhcủa Lama Tsong Khapa. Cuốn sách này trình bày giai đoạn khởi đầu của việcchuyển hóa suy nghĩ, tức luyện tâm – nói cách khác, đây là việc đầu tiên cầnthực hành nếu bạn muốn tu tập Pháp.

Chỉ đến khi đọc đượccuốn sách này tôi mới biết đích thực việc thực hành Pháp là như thế nào.Cảquãng đời trước đó tôi đã không biết được như thế. Thông thường, việc thực hànhPháp là tụng kinh, nghiên cứu, ghi nhớ, thảo luận, đọc lời cầu nguyện, hành lễ,vân vân. Nhưng chỉ đến khi đọc cuốn sách này tôi mới biết được việc thựchành lànhư thế nào. Tôi ngạc nhiên sửng sốt khi thấy rằng toàn bộ những việc làm củatôi trước đây không phải là tu tập. Tôi tự xét lại và thấy toàn bộ nhữnggì họcthuộc lòng và cầu nguyện suốt bao năm tháng đã không phải là Pháp. Từ bao nămtháng, không có gì là Pháp cả

Tôi sinh năm 1946, gầnLawudo xứ Thami, Nepal. Khi tôi khoảng ba hay bốntuổi, mẹ tôi gửi tôi vào một tu viện gần nhà để chú tôi dạy chữ. Ông ta là mộttu sĩ theo truyền thống Nyingma.Nhưng việc học không kéo dài lâu vì tôi quánghịch ngợm, tôi hay trốn khỏi tu viện để chạy về nhà mẹ nhiều lần. Nên mẹ tôiquyết định gửi tôi đến một nơi vắng và xa hơn, đó là vùng Rolwaling. Rolwalinglà một địa danh huyền bí thiêng liêng của Ngài Liên Hoa Sanh (Padmasambhava), ởđó có nhiều hang động được ban ân phước.

Một người chú khác nữatên là Ngawang Gendun đã đưa tôi đi Rolwaling. Chúng tôi phải đi vượt qua nhiềudãy núi đá rất nguy hiểm, đá rơi nằm trên lối đi có nước chảy băng qua, và rồi phảiđi qua vùng núi tuyết trong một hay hai ngày. Khi băng qua vùng núi tuyết chúngtôi đã thấy nhiều khe nứt của băng tuyết sâu tới hơn ba mươi mét tựa hồ như cóbiển dưới đáy. Thật là một chuyến đi gian khổ.

Tôi sống ở Rolwalingđựơc bảy năm, học đánh vần và học đọc. Thầy dạy học là chú Ngawang Gendun lúcđó đã là tu sĩ. Tôi học chữ cái và đọc tiếng Tây tạng , học thuộc lòng kinh cầunguyện, đọc Kangyur (Kinh Phật) vàTengyur (luận giảng của các vị tôn giảở ẤnĐộ) ngoài ra còn đi dâng lễ Pujas tại nhà các dân làng.

Ở Solu Khumbu nhiều cưsĩ không biết chữ. Các Lama cho phép họ tham dự các lễ quán đảnh nhưng họ khôngthể nhập thất ẩn tu. Các tu sĩ có thể đọc hiểu Kinh điển nên được nhập thất,còn cư sĩ trì tụng nhiều triệu biến Chú Lục Tự om mani padme hung và cáccâuchú khác. Vì không biết chữ, các cư sĩ được các Lama cho phép hành trì theo khảnăng của họ.

Lẽ ra các cư sĩ phải tựmình trì chú nhưng họ thường đến gặp các tu sĩ ở gần nhà và nhờ họ phụ đọc dùmcho đủ túc số đã phát nguyện. Họ mang khoai, nông sản khác đến và nói với tusĩ: “Tôi đã phát nguyện đọc mấy triệu biến của câu chú. Bây giờ tôi nhờ sư đọcgiúp cho tôi”. Họ đọc một số rồi yêu cầu vị sư đọc số lượng còn lại.

Tôi ở đó được bảy nămtụng đọc các Kinh Kangyur, Tengyur và Prajnaparamita(Bát Nhã Ba La Mật-ND) tạinhà các cư sĩ khi chú tôi được mời đến hành lễ Pujas. Có khi chúng tôi cử hành lễPujas cho người chết. Theo phong tục khi có người chết, thân nhân tổ chức lễPujas đặc biệt và cúng dường một số tiền lớn cho các tu sĩ và các người khác.

Khi tôi lên mười tuổi,tôi đi Tây tạng, đến ở tu viện của Domo Geshe Rinpoche gần Pagri. Tôi ở đó đượcba năm. Buổi sáng tôi tập học thuộc lòng Kinh điển, thời gian còn lại trongngày tôi đến nhà dân làng hành lễ Pujas. Tôi trải qua cuộc thi đầu tiên ởđóvới người quản lý dâng lễ cúng dường cho các tu sĩ . Pagri là một trung tâm muabán sầm uất, có nhiều thương gia đến từ Lhasa, Tsang hay từ Ấn Độ – từ rấtnhiều nơi.

Vào tháng ba năm1959, người Trung hoa đến Tây tạng nhưng vì Pagri gần biên giới Ấn nên chưa cógì nguy hiểm. Một năm sau tôi được chỉ dạy để thực hiện việc ẩn tu đầu tiên vềphép tu Đạo sư Du già “Lama Tsong Khapa Guru Yoga” ở một tu viện gần đó,có tênlà Pema Choling, một chi nhánh trực thuộc tu viện của Domo Geshe. Tôi chưa hiểubiết gì về thiền định. Tôi chỉ tụng các lời cầu nguyện, đọc Migtsemas (lời cầu nguyệnkhi tu tập Lama Tsong Khapa Guru Yoga-ND). Tôi cho là đã hoàn tất đợt nhậpthất, nhưng tôi không biết là đã tu như thế nào, cũng không biết đọc được baonhiêu câu chú.

Vào cuối năm 1959, cảmthấy sắp bị nguy hiểm, chúng tôi quyết định đi Ấn độ. Một ngày nọ, khi nghe tinrằng vài ngày tới, người Trung hoa sẽ đến, chúng tôi bí mật bỏ đi vào ban đêm.Chúng tôi chỉ cần vượt qua một ngọn núi là tới được nước Bhutan. Chúng tôi vượtbiên trong đêm tối, không thấy rõ đường, có lúc lội xuống bùn và trượt chân. Cónhững người du mục ở ngay biên giới. Nếu để họ thấy sẽ nguy hiểm vì nghenói cócông an ở cùng với họ, nhưng may thay, dù có chó sủa nhưng không người du mụcnào ra khỏi lều cả.

Cuối cùng chúng tôi cũngđến được Ấn Độ. Chúng tôi đến Buxa Duar, xứ Tây Bengal; tại đây chính phủ Ấnđộ thu xếp cho các tu sĩ từ các tu viện Sera, Ganden và Drepung được địnhcư tiếp tục tu tập. Khi còn là thuộc địa Anh, thì Buxa là nơi giam giữ các tùnhân trong đó có Mahatma Gandhi, Nehru. Dãy nhà lúc trước Mahatma Gandhibịgiam nay trở thành nơi các ni sư ở, và chỗ Nehru bị giam nay trở thành phòngcầu nguyện của Tu viện Sera.

Tôi bắt đầu học triết lýPhật giáo với Geshe Rabten Rinpoche, học cuốn các “ Chủ đề Tập hợp” (CollectedTopics -Dura), một môn học tranh luận đầu tiên. Nhưng Geshe Rabten có nhiều đệtử và rất bận rộn nên một người học trò của Geshe là Gen Yeshe, người vừa mớiqua đời, hồi đó đảm nhận dạy tôi. Sau đó, tôi theo học với Lama Yeshe.

Khi ở Buxa, tôi bị đauphổi vì điều kiện sống quá thiếu thốn. (Dĩ nhiên đó không phải là lý do duynhất, mà còn do nghiệp của tôi nữa!). Sau đó Lama Yeshe và tôi đi Darjeeling, ởlại đó chín tháng để tôi có điều kiện chữa bệnh. Và chính trong thời gian đó,tức là năm 1965, khi chúng tôi đang ở trong tu viện của Domo Geshe ởDarjeeling, chúng tôi lần đầu tiên gặp Zina Rachevsky, một đệ tử từ phương Tâyđến. Cha của Zina trước kia là một hoàng tử Nga, nhưng gia đình đã trốn sangPháp trong thời kỳ cách mạng Nga. Zina sinh ra ở Pháp. Sau đó gia đình sangđịnh cư ở Mỹ.

Zina muốn chúng tôi điđịnh cư ở Sri Lanka và mở một trung tâm Phật Pháp ở đó. Chúng tôi đã xinđược phép của đức Dalai Lama và chính phủ Tây tạng, nhưng Zina gặp trởngại nên việc đi Sri Lanka bất thành. Vì tôi là người Nepal nên cuối cùng chúngtôi quyết định đi Nepal.

Khi đến Nepal, chúng tôiở trong một tu viện Gelug gần Baudhanath Stupa, ngay ngoài thành Kathmandu. Mỗingày qua cửa sổ, Lama chăm chú nhìn đến một ngọn đồi đặc biệt. Ngài dường như bịngọn đồi thu hút và vào một ngày nọ, chúng tôi đi xem ngọn đồi đó. Đó làđồiKopan.

Trong thời gian này, mẹtôi cùng một số bà con từ Solu Khumbu đi đến Kathmanduđể hành hương. Cứ mười hai năm một lần có một lễ hội đặc biệt và toàn thể cưdân vùng núi Himalaya xuống núi đi hành hương đến thung lũng Kathmandu.Năm đó họ yêu cầu tôi về lại quê nhà. Nên tôi về Solu Khumbu.

Vào dịp này, hang độngLawudo được giao lại cho tôi, và tôi bắt đầu xây dựng tu viện Lawudo. LamaYeshe cũng đang xây dựng tu viện Kopan. Hai tu viện được xây dựng cùng thời gianvà cùng lúc đó tôi tìm thấy được quyển sách của Lodro Gyaltsen.

Chuyển Hóa Tâm

“Khai mở Cánh cửa Pháp”chủ yếu dạy về sự vô thường, cái chết và những nhược điểm của ham muốn tức lànhững chướng ngại tạo nên bởi tám pháp thế gian (từ đây sẽ dùng từ bátphong-ND). Bát phong, tức tám thứ lo phiền này, là:

1. Vui sướng khi đượclợi (Lợi)
2. Buồn khổkhi bị thiệthại (Thiệt hại)
3. Muốn vuisướng (Sướng)
4. Khôngmuốn bất hạnh khổ sở (Khổ)
5. Muốnnghe những lời ưa thích (Khen)
6. Khôngmuốn nghe những lời không ưa (Chê)
7. Muốnđược cangợi (Vinh)
8. Khôngmuốn bị phê bình lăng mạ (Nhục)

Tôi không biết đến bâygiờ quyển sách này đã dịch ra tiếng Anh hay chưa. Về tư tưởng, quyển sách nàykhông phải khó hiểu nhưng có nhiều thuật ngữ cổ cần được giải thích.

Vào lúc đó tôi đọc quyểnsách thấy rất bổ ích. Nó dạy rằng, giống như nhào nắn bột bằng tay, chắcchắnbạn có thể chuyển hóa tâm theo cách bạn muốn. Tâm thức có thể được luyệnđể đitheo hướng này hay hướng khác. Giờ đây cách suy nghĩ của tôi không còn cứngngắc, nhưng vào thời điểm đó, khi hiểu được một ít ý nghĩa của giáo lý, tôi sẽ thấykhó chịu nếu có ai đến cúng dường (ý nói Rinpoche muốn tự nghiêm khắc bảnthân-ND).

Sau khi tìm thấy quyểnKhai mở Cánh cửa Pháp, tôi đã thực hiện một đợt ẩn tu hộ pháp bổn tôn (deity).Tôi cho rằng nhờ quyển sách này tôi đã hiểu được cách thực hành Pháp nênngayngày nhập thất đầu tiên tôi có được sự bình an hỉ lạc không thể tin được. Lúcđó, ảnh hưởng của bát phong được giảm đôi chút nên tâm tôi được tĩnh lặng hơnvà thanh tịnh hơn. Giống như dẹp bớt đất đáù ngăn cản đường đi, tâm tôi bớt đichướng ngại của bát phong. Đây là điều đã làm cho đợt nhập thất ẩn tu đóthànhcông. Mặc dù trước khi nhập thất tôi đã không đọc kỹ các lời hướng dẫn cho việctu tập tantra (Kim cang thừa-từ đây sẽ dùng từ tu tập tantra – ND) nhưngtôi đã nhận đượcân phước của hộ pháp bổn tôn vì chướng ngại trong tâm bớt đi.

Cố gắng kiểm soát tâmbạn cho sạch hết chướng ngại rồi thì Pháp thanh tịnh trong tâm sẽ mang bạn đếngần hộ pháp bổn tôn hơn. Mặc dù bạn có thể không quen với việc thiền định nhưngân phước của hộ pháp bổn tôn sẽ đến với bạn. Những dấu hiệu tốt ban ngàylúcđang thiền định cũng như ở ban đêm trong giấc mơ biểu lộ cho thấy hộ pháp bổntôn hài lòng với bạn và đang ban ân phước cho bạn. Dường như việc nhận được ânphước từ hộ pháp bổn tôn không tùy thuộc duy nhất vào sự hiểu biết thiềnđịnh tronggiai đoạn phát triển và giai đoạn thành tựu của đạo lộ tantra.

(Dĩ nhiên bạn không thểtiếp tục nhập thất nếu khi càng ẩn tu thì lung tức là gió, là bệnh bạn có, càngphát triển nhiều hơn. Sau khi tiếp xúc với Phật giáo Tây tạng bạn sẽ biết tấtcả về lung. Trước đó bạn không biết nhiều về nó. Ở đây, nguyên nhân chính củalung là không khả năng thực hành ý nghĩa chân thật của Pháp, tinh túy của giáolý này)

Kirti Tsenshab Rinpoche,người nắm giữ Phật Pháp thiêng liêng đã nói: “Toàn bộ Kinh điển của Phật(tiếngTạng là Kangyur) và các luận giảng của các vị Tôn giả (tiếng Tạng là Tengyur)đều nói tới sự điều phục tâm”. Toàn bộ các lời dạy này đều nhắm vào việcluyệntâm, chuyển hóa suy nghĩ. Toàn bộ Kinh điển của Phật nói tới sự chuyển hóa tâm,điều phục tâm.

“Khai mở Cánh cửa Pháp”dạy về chuyển hóa suy nghĩ như tôi đã lưu ý. Vì sao được gọi là chuyển hóa suynghĩ? Cái gì ngăn cản và làm mất hiệu quả việc chúng ta lắng nghe, suy ngẫm ýnghĩa của giáo lý, thiền định về đường đạo mà giáo lý nêu ra? Đó là bát phong,sự ham muốn bám chặt cuộc sống này. Mục đích đặc biệt của cuốn luận giảng nàylà kiểm soát bát phong– đây là sự chuyển hóa suy nghĩ.

Toàn bộ lời dạy củaLamrim- con đường đạo từng bước đưa tới giác ngộ- là chuyển hóa suy nghĩ. Mụcđích chính của Lamrim là điều phục tâm. Đây là lý do tại sao việc lắng nghe,suy ngẫm và thiền định về các lời dạy Lamrim rất lợi ích. Khi các lời dạy kháckhông có hiệu quả thì việc nghe giảng và đọc Lamrim có thể điều phục tâmbạn.Lamrim chứa đựng một sự sắp xếp đặc biệt có thể điều phục được tâm thức.

Cuốn Lamrim đầutiên được biên soạn bởi Lama Atisha với tiêu đề “Ngọn đèn Soi đường tới Giácngộ”. Tác phẩm đó bắt đầu bằng việc dạy quán về sự tái sinh được thân ngườihoàn chỉnh – tám tự do và mười thuận lợi. Tuy nhiên đến lượt Lama Tsong Khapa,ngài mở đầu cuốn sách bằng việc quán về sự sùng mộ thầy, coi đó là gốc của đườngđạo .

Giờ đây, chúng ta suyxét xem cái gì ngăn cản sự phát triển đạo lộ từng bước đưa tới giác Ngộ trongtâm ta, cái gì không cho phép chúng ta có được những thực chứng đầu tiên về lòng sùng mộ thầy hay sự tái sanh thân người hoàn chỉnh. Lại một lần nữa, đó làbát phong. Bát phong không cho phép việc thực hành Lamrim trở thành Pháp. Cáigì không cho phép các hoạt động thường nhật trở thành Pháp? Từ sáng sớm cho tớiđêm khuya cái gì không cho phép những hành động của chúng ta trở thành Pháp?Chính là bát phong, sự ham muốn bám chặt cuộc sống này. Đây là trở ngại ngăn cảnsự phát triển Lamrim ở trong tâm ta từ lúc bắt đầu tu tập cho đến khi Giác Ngộ,nó không cho phép chúng ta có được những thực chứng như sự sùng mộ thầy hay sựtái sinh thân người hoàn chỉnh.

Chúng ta cần luyệntâm bằng việc soi rọi lại những nhược điểm của bát phong và đối chiếu với nhữnglợi ích vô tận khi buông bỏ được bát phong. Đặc biệt, chúng ta luyện tâm bằngsự Thiền định về vô thường và chết. Một khi sự luyện tâm sơ khởi này được làm,bạn sẽ mở được cánh cửa Pháp. Rồi thì không chút khó khăn bạn sẽ có khả năng thựchành Pháp. Và bạn sẽ có khả năng làm được mọi hành động bạn muốn như nhập thấthay các Pháp hành khác. Nói chung, mọi hành động bạn làm đều là Pháp. Ngoài ra,bạn còn có khả năng bắt đầu phát triển trong tâm những thực chứng trên đườngđạo từ lòng sùng mộ thầy hay sự tái sinh thân người hoàn chỉnh cho tới sự giácngộ. Bạn có khả năng phát khởi, tiếp tục và hoàn tất con đường đạo đưa tới sựgiác ngộ trong tâm bạn.

Tất cả những kếtquả này đều đến từ sự luyện tâm ngay bước đầu tiên, đó là Khai mở Cánh cửaPháp. Nếu bạn thực hành được ý nghĩa của giáo lý này, bạn sẽ kiểm soát được bátphong thay vì để chúng điều khiển bạn. Thay vì bị tước đoạt sự tự do, bạn giànhlấy sự tự do cho mình. Nếu không, bạn sẽ không có tự do, không tự chủ độc lập.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2018(Xem: 8740)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng. Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào: Mái ngói Chùa Quan Âm trôi dạt xa trong mây của các chùm hoa anh đào.
27/07/2018(Xem: 6869)
Chúng tôi được Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch công ty sách Thái Hà thông báo về khóa tu tại chùa Cự Linh, tỉnh Hải Dương Thầy là khách mời của khóa tu trong buổi sáng và buổi chiều sẽ hướng dẫn thiền. Khóa tu có đến 600 bạn trẻ mà chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tôi là một trong số các bạn may mắn nhất của CLB yêu sách Thái Hà được đi cùng thầy Hùng. Thầy Hùng lái xe đưa chúng tôi đến một chương trình quá đặc biệt làm tôi vô cùng ấn tượng. “Khóa tu mùa hè.” Tại sao lại là mùa hè nhỉ? Câu hỏi này luôn vấn vương trong đầu tôi. Tại sao bây giờ ở rất nhiều chùa, các quý thầy, quý sư cô đều tổ chức khóa tu cho các bạn học sinh, sinh viên nhỉ? Tôi được biết, riêng thầy Hùng đã có hơn chục khóa tu mùa hè mời đến chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình và hướng dẫn thiền cho các bạn tu sinh rồi. Tôi giật mình nghĩ rằng mùa hè là mùa có nhiều ánh sáng mặt trời nhất, là mùa mà bắt đầu có nhiều loại cây bắt đầu kết trái, bởi thế nó mang lại nhiều năng lượn
27/07/2018(Xem: 10207)
Người không hiểu đặt câu hỏi “Tại sao cá đã bắt lên rồi lại đem thả, như thế có giả tạo không?; “Sao không đem tiền cho người nghèo mà đi cứu mấy con cá?” Chúng tôi xin phép được giải thích rõ hơn cho hành động Phóng Sinh: Cũng có những người thiếu hiểu biết và rất tiêu cực còn chê người là ngu vì họ nghĩ nên dùng tiền mua cá để đem cho nhà mồ côi, viện dưỡng lão, trại phong cùi hay người nghèo Phi Châu thì thực tế hơn v.v. Ngư phủ đi bắt cá lên bờ để bán cho người mua về giết rồi ăn thịt chúng. Nhưng thực tế có bán và ăn hết những thuỷ sản bị bắt lên bờ không, hay là sẽ còn thừa bị chết vì bắt lên nhiều quá làm cho một phần thặng dư chúng sanh sống trong nước bị chết uổng phí và chẳng được đóng góp thân thể của chúng để nuôi cho loài người được sống hạnh phúc; Hay chúng bị thúi rữa rồi đem bỏ?
26/07/2018(Xem: 7471)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình. Nhưng sợ hãi có mặt tích cực của nó trong vấn đề tu tập hành trì đạo pháp mà không phải ai cũng biết, sợ hãi là nếp tốt là đạo hạnh của sự lương thiện trong tâm hồn cao thượng. Vậy sự sợ hãi trong tu tập hành đạo như thế nào?
26/07/2018(Xem: 8333)
TUỆ TRÍ CỔ XƯA VÀ TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI Nguyên tác: Ancient Wisdom and Modern Thought Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Mumbai 2011 Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tôi thật sự cảm thấy vinh dự lớn để nói chuyện với quý vị. Đặc biệt tại trường đại học, vì đây là trường Đại học Bombay rất nổi tiếng. Tôi luôn cảm thấy vui mừng khi gặp gở với các sinh viên. Tôi tin rằng thế hệ trẻ hơn – những người tuổi dưới 30 hay là 20 – là thế hệ thật sự của thế kỷ này, thế hệ có thể tạo nên một tình trạng mới cho thế giới này một lần nữa.
26/07/2018(Xem: 5842)
5h sáng. Sớm tinh mơ. Tôi đã thức dậy, mở toang hết cửa cổng để đón tất cả nhân duyên của ngày mới còn đang lãng vãng lân la bên ngoài vào nhà. Khu vực ngoại thành này, tầm 8h -9h vẫn còn yên tĩnh, còn nghe được tiếng chim ca, tiếng gà cục tác, huống hồ chỉ mới vào thời khắc đón ánh bình minh dịu dàng từ hướng Đông... Gian phòng thờ đã lên đèn. Ánh hào quang sau thánh tượng đức Phật rọi soi ấm áp huyền diệu. Hoa đăng, hương trầm, bánh trái đã thiết bày trên các bàn thờ theo đúng nghi lễ được Thầy hướng dẫn, căn dặn... Thầy đến trước giờ hẹn nửa giờ đồng hồ, mới 7h30, triệu thỉnh thêm thánh tượng đức Địa Tạng Vương Bồ Tát từ chùa Tịnh Quang mà Thầy trú trì, để thiết trên bàn đặt giữa chính môn. Nửa giờ sau, thêm một thầy nữa quang lâm, thầy
24/07/2018(Xem: 6502)
Sinh ra ở cõi đời này, dù được sống trong vui vẻ hạnh phúc nhiều như thế nào đi nữa, thì cũng sẽ có lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống thật là vô vị, bởi những chuyện không vừa ý cứ dồn vập đổ tới khiến chúng ta vô cùng chán nãn. Những lúc như thế chúng ta thường hay oán Trời trách đất, hay oán hận những người xung quanh đã gây bao nhiêu điều phiền muộn đau khổ cho chúng ta. Chúng ta trách tại sao trước mắt chúng ta có những người quá hạnh phúc, không phải lo toan điều gì, mới sanh ra đời đã được ở trong cảnh giàu sang nhung lụa, lớn lên lập gia đình cũng được sống trong cảnh sung sướng, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ. Riêng chúng ta thì đầu tắt mặt tối, cực khổ vô cùng mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc.
22/07/2018(Xem: 8810)
Thái Lan: Các cầu thủ đội bóng Heo rừng sẽ xuất gia 12 cầu thủ đội bóng “Heo rừng” và huấn luyện viên của họ đã được cứu thoát sau khi bị mắc kẹt 18 ngày trong một hang động ở Thái Lan, có khả năng sẽ xuất gia hạn định để bày tỏ sự kính trọng đối với Saman Kunan, cựu Hải quân Thái SEAL đã hy sinh trong nhiệm vụ giải cứu đội bóng.
22/07/2018(Xem: 6969)
Người con Phật nghĩ gì về án tử hình? Đứng về phương diện cá nhân, rất minh bạch rằng không Phật tử nào ủng hộ án tử hình. Đứng về phương diện quốc gia, thực tế là rất nhiều quốc gia -- nơi Phật giáo gần như quốc giáo, như Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka… -- vẫn duy trì và thực hiện án tử hình. Tại Thái Lan, án tử hình dùng để trừng phạt cho 35 tội hình sự, trong đó có tội sát nhân và buôn ma túy. Miến Điện cũng thế. Điểm hay là ở chỗ, hai quốc gia này tuyên án tử hình, nhưng rất ít khi thi hành án tử. Các quốc gia có đông dân số Phật tử -- như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan… -- vẫn áp dụng án tử hình, và thường xuyên thi hành án tử.
20/07/2018(Xem: 6408)
Xã hội tân tiến ngày nay, đã khiến cho con người không còn sống trong sự bình thản như ngày xưa, bởi vì nền văn minh kỹ thuật cơ khí, điện tử đã lôi cuốn người ta gia nhập và chạy đua với thời gian. Cái gì cũng phải nhanh, phải vội, cuộc sống bon chen, không ai chờ đợi ai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]