Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Nói Đầu Của Người Biên Tập

06/01/201111:01(Xem: 10750)
Lời Nói Đầu Của Người Biên Tập

 

LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP

 

Tháng hai năm1990, hơn một trăm Phật tử từ nhiều nơi trên thế giới tập trungvề học ở tu viện có tên Root Institute, một trung tâm Phật giáo trong thành cổBồ Đề Đạo Tràng, Ấn độ, nơi mà Đức Phật đã thành tựu Chánh Giác cách đây2500năm. Lớp học là một cái lều rộng trang hoàng nhiều màu sắc được dựng lêntrênnền đất của tu viện ngày xưa.

Khóa học này làmột phần hoạt động định kỳ của các khóa giảng giáo lý và lễ quán đảnh cótên “Kỷniệm sự thành tựu giác ngộ lần thứ ba” do Tổ chức Bảo tồn Truyền thống Phậtgiáo Đại thừa (viết tắt FPMT) lập ra.

Từ ngày 16 đến ngày 25 tháng hai năm 1990, LamaThubten Zopa Rinpoche (từ đây trở đi, từ “Rinpoche” chỉ cho Lama Zopa-ND),người lãnh đạo tinh thần của FPMT, đã giảng về “những giáo huấn của truyềnthống Kadampa”; khóa học có mười bài giảng dựa theo tác phẩm Khai mở Cánh cửaPháp do vị hành giả du già Tây tạng Lodro Gyaltsen trước tác vào thếkỷ15.

Rinpoche đã gâyngạc nhiên cho các đệ tử đang theo học khi tuyên bố rằng vào cuối những năm haimươi tuổi sau khi đọc tác phẩm đó, Rinpoche mới hiểu được ý nghĩa chân thật củaviệc tu tập Pháp. Họ ngạc nhiên bởi vì qua nhiều năm theo học vớiRinpoche và thông qua uy tín của ngài, các đệ tử hiện diện trong khóa học, bằngkinh nghiệm, đã biết rằng Rinpoche từng giây phút đã và đang hiến dâng cuộc đờimình cho Pháp, cho việc tu tập tâm linh; đồng thời họ cũng biết rằng Rinpochelà một tấm gương hoàn hảo của một hành giả tu tập Pháp. Như vậy rõ ràng,có mộtnhân duyên đặc biệt để được nghe khóa giảng này.

Như Rinpochethuật lại trong phần dẫn nhập, ngài sinh năm1946 trong vùng Solu Khumbu nước Nepal gần núiEverest. Theo lời kể lại của mẹ ngài, khi bắt đầu biết nói Rinpoche thường bảo:“tôi là Lawudo Lama”. Lawudo Lama có tên thật là Kunsang Yeshe đã mất năm 1945;ông nổi tiếng là một hành giả khổ hạnh và đạt giác ngộ rất cao. Trong hai mươinăm cuối đời, ông đã sống và thiền định trong một hang động ở Lawudo, vàlàngười dẫn dắt tâm linh cho dân cư địa phương. Đặc biệt ông đã phụng sự dân làngvới một năng lực vô tận và cũng như các đại hành giả du già, ông đã vượtquađược nhu cầu nghỉ ngủ.

Trên thực tế,bé trai đã được thừa nhận là vị tái sinh của Lawudo Lama. Ngawang Chopel,đệ tửchính của Lawudo Lama, theo truyền thống, đã đến tham vấn nhiều Lama caocấp ởTây tạng, tất cả đều đồng ý xác nhận vị tái sinh này. Thêm nữa, Lama ZopaRinpoche đã chỉ trúng các vật dụng cũ của Lawudo Lama đã dùng.

Trong phần dẫnnhập, Rinpoche kể cho chúng ta nghe về thời niên thiếu của ngài. Đầu tiên,Rinpoche ở tại tu viện Thami, về sau tại Rolwaling, Nepal và cuối cùng đi đếnTây tạng, ở tu viện của Doma Geshe Rinpoche xứ Pagri. Lawudo Lama là mộthànhgiả cư sĩ thuộc truyền thống Nyingma, trái lại khi Lama Zopa Rinpoche đến ở tuviện Domo Geshe, Rinpoche lần đầu tiếp xúc với truyền thống Gelug và trởthànhmột tu sĩ. Vị Hộ Pháp ở tu viện cũng xác nhận Rinpoche là một Lama tái sinh vàđã cho những chỉ giáo để nuôi dạy ngài.

Sau ba năm ởPagri, Rinpoche quyết định đi đến tu viện Sera, một trong những trường đại họcPhật giáo nổi tiếng của Gelug ở gần Lhasa để tiếp tục tu học. Tuy nhiên vị Hộ Phápbất ngờ khuyên Rinpoche đừng đi và nên ẩn tu thiền định.

Như Rinpoche kểlại, khi nghe tin người Trung Hoa sắp đến vùng Pagri, Rinpoche bỏđi đến nước Bhutan rồi sang Ấn Độ, tới Buxa Duar ở miền Tây Bengal. Rinpoche ởlại đây tám năm, tiếp tục tu học với hàng trăm Lama, các tăng, và ni sư di cưsang, sống trong một trại tập trung của người Anh lập nên trước đây.

Chính trong lúcnày, Rinpoche được Lama Thubten Yeshe thuộc Tu viện Sera, quan tâm chăm sóc vàtừ đó Rinpoche luôn luôn là đệ tử tâm huyết cho đến khi Lama Yeshe mất vào năm1984. Khi Lama Yeshe mất, Rinpoche đã nói: “Lama Yeshe đối với tôi còn hơn mộtngười cha, hơn một người mẹ”, “Lama Yeshe đã chăm sóc tôi như gà mẹ dùngmỏ mớmthức ăn cho con”.

Ròng rã suốthai mươi năm sau đó, hai vị Lama này đã có những tác động rất lớn lao đếnthế giới phương tây, thu hút hàng ngàn đệ tử nhờ vào năng lực giảng dạy cũngnhư lòng từ bi bao la; các ngài miệt mài họat động vì lợi ích người khác.

Năm1965 khiRinpoche bị đau phổi đang điều dưỡng ở Darjeeling,hai Lama đã gặp Zina Rachevsky, đệ tử đầu tiên của họ từ Mỹ đến. Là con gái mộtnhà quí tộc Ukraina trốn sang Pháp trong thời cách mạng Nga; cô Zina bắtđầunhận sự giảng dạy từ Lama Yeshe và Rinpoche với vốn liếng tiếng Anh mới học,làm thông dịch cho cô ta.Từ đó về sau, cả hai Lama đã đặc biệt dạy Pháp cho cácđệ tử phương Tây bằng tiếng Anh.

Vào năm 1968,lúc đó Zina đã xuất gia, họ cùng chuyển tới Nepal. Và chính ở Nepal sự nốikết của hai vị Lama với các đệ tử phương Tây bắt đầu phát triển mạnh. Trướctiên, họ ở Baudhanath ngay ngoài thành Kathmandu,nơi có một cái tháp Phật cổ. Theo như Rinpoche kể lại “mỗi ngày từ cửa sổ, LamaYeshe đưa mắt nhìn ra xa tới ngọn đồi phía bắc, bên kia những đám ruộng bậcthang dưới thung lũng. Ngài dường như bị ngọn đồi thu hút và vào một ngày nọchúng tôi ra khỏi nhà đi đến tận ngọn đồi đó để xem xét. Đó là đồi Kopan”.

Đồi Kopan trướckia là nơi ở của nhà chiêm tinh của Vua Nepal, và năm 1969 hai vị Lama dời đếnđó ở. Năm sau, nhận lời mời của thân quyến, Rinpoche trở về thăm Solu Khumbu vàtrong thời gian này, người con trai của Lawudo Lama trao lại cho Rinpoche hangđộng Lawudo cùng các đồ dùng trước đây của cha mình. Cũng chính trong thời giannày, Rinpoche mới hoàn thành được tâm nguyện của Lawudo Lama là lậpmột tu viện cho con em trong vùng. Rinpoche đặt tên ngôi trường là “Trungtâm Mount Everest”.

Năm 1971,Rinpoche ban bài giảng đầu tiên cho một nhóm mười hai đệ tử phương Tây –mộtbài giảng sâu sắc về thiền định và triết lý Phật giáo. Chính lần giảng dạy đầu tiênnày mà sau đó đã trở thành sự kiện mang tính thông lệ hàng năm và thu hút hàngtrăm người tham dự từ nhiều nơi trên thế giới.

Chán ngán xuhướng tôn sùng vật chất, thiếu thốn một điều gì có thể phù hợp cho nhữngkhaokhát nội tâm, những người phương Tây đã tìm đến đây và đã cảm xúc sâu xabởi nhữngphương pháp của Phật giáo Đại thừa tràn đầy lòng từ bi và minh triết, thựctiễn. Đó không phải là những ngôn từ trống rỗng mà là một truyền thống giáo lývà những thực hành thiền định sống động, một dòng truyền thừa từ thầy sang tròkhông gián đoạn, xuất phát từ Đức Phật truyền cho tới ngày nay. Các phương phápđó có hiệu quả rõ rệt, lấy bằng chứng cụ thể từ việc sống cùng với các Lama,lắng nghe họ giảng, cũng như làm theo những lời chỉ dạy dành riêng cho mình hayđể ý tới những hành động của các Lama khi ở cùng người khác. Đây là những phươngpháp thể hiện rất sống động về sự nhẫn nại, ưu ái, hài hước, uyên bác, hoan hỉ,tràn đầy lòng thương yêu.

Đáp lại yêu cầucủa các đệ tử phương Tây mỗi lúc một nhiều, các Lama đã đi phương Tây lần đầuvào năm 1974. Họ đến nước Mỹ, Úc, New Zealand và chặng dừng chân đầu tiên là ở New York. Rinpoche nói:“Chuyến đi không gây ngạc nhiên cho tôi lắm vì tôi đã không thấy lạ đối vớinhững nơi ấy nhờ vào việc học tiếng Anh từ tạp chí Times, và gặp nhiều ngườiphương Tây trẻ có, già có, nghe họ nói về kinh nghiệm sống của họ ở đó”.

Sau các chuyếnđi của hai Lama, các đệ tử ở nhiều quốc gia bắt đầu thành lập các trung tâmgiảng Pháp và Thiền định, và vào năm 1975 khi mạng lưới các trung tâm này đủlớn mạnh, Lama Yeshe quyết định đặt tên cho hệ thống này là Tổ chức Bảo tồnTruyền thống Phật giáo Đại thừa (viết tắt FPMT). Kopan là đầu mối của tổchứcnày. Mỗi năm Rinpoche mở lớp giảng được gọi là “Khóa giảng tháng mười một”. Số lượngtrung tâm tăng không ngừng, và hàng năm các Lama từ Kopan đi đến cáctrung tâm trên thế giới, đáp ứng những lời mời thỉnh giảng dạy càng lúc càngtăng.

Giờ đây “Trungtâm Mount Everest” đã dời từ núi xuống thung lũng Kathmandu ở Kopan, cơ sở nàytiếp tục mở rộng thêm để phục vụ việc tu tập cho người Sherpas, Manangpas,Tsumpas và cho nhiều người khác nữa ở Nepal cũng như cho những người Tâytạng.

Năm 1973 ZinaRachevsky bị bệnh và chết giữa lúc đang ẩn tu thiền định. Theo như Rinpochenói, có những dấu hiệu lúc Zina mất cho thấy ni sư đã thành tựu những chứng ngộ tâm linh.

Một năm sau,khi về thăm lại hang động Lawudo, Rinpoche bắt gặp cuốn sách giáo lý mà nó đượclàm nền tảng cho tác phẩm này. Cuốn sách đó đã khiến Rinpoche nói rằng chỉ saukhi đọc nó, Rinpoche mới tìm ra được “phương cách tu tập Pháp”.

Nội dung cuốnsách như thế nào mà khiến Rinpoche, một hành giảvĩ đại, đã nói như vậy? NhưRinpoche có giải thích, Khai mở Cánh cửa Pháp (tên cuốn sách-ND) là “thực hànhđầu tiên bạn phải áp dụng nếu bạn muốn tu tập Pháp”.

Như Rinpochexác định ngay từ đầu và cũng như trong suốt tác phẩm này, điểm chủ yếu là: mộtthực hành được coi là tu tập tâm linh hay không, không phải được xác định bằng hìnhthức tu tập như Thiền định, cầu nguyện hay tụng kinh, trì chú mà phảiđược xác định bằng động cơ (tâm nguyện) muốn tu tập. Rinpoche chỉ rõ cáigọi làhoạt động tâm linh có thể không phải là hành động tu tập Pháp, nói cách khác,nó không đem tới một quả vịû thiện hạnh nếu nó được thúc đẩy bởi ham muốn, gắnvới những thành đạt tầm thường của đời sống thế tục này.

Ngược lại ngaycả cái gọi là một hoạt động thế tục có thể sẽ là sự tu tập Pháp nếu nó đượcthúc đẩy bởi một động cơ vì mục tiêu lớn rộng hơn, lâu dài hơn.

Theo quan điểmcủa Phật giáo Đại thừa, động cơ của một hành động được coi lớn nhất là ước muốnthành tựu giác ngộ để dẫn dắt người khác đạt tới trí tuệ và đại bi tối thượng.Tiêu điểm này là độc nhất vô nhị của Đại thừa, con đường của các Bồ Tát –cácvị có được tâm giác ngộ, bồ đề tâm không cần dụng công (mặc nhiên tự phát) ;nói cách khác, một động cơ Đại thừa tự nhiên và liên tục tự phát. Lamrim–đường đạo từng bước đưa tới giác ngộ – đã vạch rõ những phương pháp khácnhauđể thành tựu bồ đề tâm. Giáo lý này bao gồm những phép tu từng bước, rúttừ cáclời dạy của Đức Phật, lần đầu tiên được Lama Atisha vĩ đại giảng dạy ở Tây tạngvào thế kỷ mười một.

Một phương pháprất hữu hiệu khác nữa để phát triển bồ đề tâm là làm theo một loạt các lời dạyvà thiền định, được gọi là chuyển hóa suy nghĩ hay luyện tâm (tiếng Tạng: lo-jong).Phương pháp này đặc biệt nhấn mạnh sự tu tập trao đổi mình với người, nói cáchkhác, yêu thương chăm sóc người khác thay vì nuông chiều bản thân mình.

Nói chung, hànhgiả học sử dụng từng giây phút của cuộc sống – dù đang được sung sướng hay bấthạnh – để phá hủy chướng ngại lớn nhất của bồ đề tâm, đó là thói quen chỉ biếtcó mình, chỉ biết lo cho mình.

Trong tác phẩmGiải thoát trong Lòng Bàn tay, Pabongka Dechen Nyingpo giải thích rằng:

Phép chuyểnhóa suy nghĩ (lo-jong) có thể xua tan bóng tối của vị kỷ (nuông chiều mình –ND), giống như một tia sáng có thể xua tan đêm đen. Nó có thể trừ khử căn bệnhvị kỷ giống như thảo dược có thể trị lành bệnh tật. Trong thời đại ngàynay khi năm thứ suy đồi đang rất phổ biến và các phép tu khác không hiệuquả thì phép luyện tâm này (lo jong) sẽ giúp được cho bạn và bạn sẽ không bịcác nghịch cảnh gây trở ngại. Phép tu này có tác dụng rất to lớn.(trang 588-589)

Phép luyện tâmnày được dạy đầu tiên vào thế kỷ thứ tám bởi Shantideva, vị đạo sư Đại thừa ởẤn Độ; ngài khuyên các hành giả du già thực hành phép tu tập này một cách bí mậtbởi vì, như Pabongka Dechen Nyingpo nói, chúng không “làm hài lòng một bình chứakhông thích hợp”.

Chính Đại sưAtisha đã đem giáo lý này đến Tây tạng và bí mật trao truyền cho Dromtonpa, đệtử ruột của ngài. Và từ đó bắt đầu giòng truyền thừa Kadampa vĩ đại gồm các vị dugià nổi tiếng trong phép tu tập chuyển hóa suy nghĩ (lo-jong). Và ngày nay cácdu già Đại thừa áp dụng phép tu tập này trong các khóa thiền chính.

Luận giảng Khaimở Cánh cửa Pháp thuộc truyền thống Kadampa này. Cuốn sách chủ yếu nhấnmạnh đến nhược điểm của sự ham muốn, đến vô thường và cái chết. Những điều này là“những thực hành đầu tiên nếu bạn muốn tu tập Pháp”, bởi vì, thực tế mà nói,một khi thấy được rằng liền sau ham muốn có nhân của đau khổ, bạn mới có khảnăng tu tập và cuối cùng bạn mới có thể hoán đổi mình với người khác để pháttriển bồ đề tâm.

Với cuốn sách“Cánh cửa Mãn nguyện” này, Lama Zopa Rinpoche đã sử dụng những lý lẽ mạnh mẽ,xác thực, nêu ra cho người đọc thấy rằng, bằng việc thực hành những phương phápnày và bằng sự nhận biết không có cái tôi để nuông chiều, chúng ta có thể pháthiện được sự mãn nguyện và sự hạnh phúc của mình ỏ mức sâu sắc nhất, tứclà sựgiác ngộ, và từ đó chúng ta có thể dẫn dắt người khác đạt tới trạng tháigiácngộ viên mãn.

Đây làlời khuyên tâm huyết, cốt lõi trong những bài giảng của Rinpoche từ khi ngàiban cho khóa thiền định đầu tiên năm 1971. Rinpoche là một Kadampa trongthờihiện đại. Ngài là một tấm gương điển hình hoàn hảo về những lời giảng màngàiđã dạy và ngài đã không ngừng yêu thương chăm sóc người khác hơn là bản thânmình.

Từ khi ngườithầy kính yêu của ngài là Lama Yeshe qua đời vào năm 1984, Lama Zopa Rinpochelà vị Lãnh đạo Tinh thần duy nhất của FPMT. Tổ chức này tiếp tục phát triển ởnhiều nước, có hơn bảy mươi trung tâm thiền định, nhập thất, chữa bệnh cũng nhưnhững tu viện, nhà xuất bản và các hoạt động khác nữa trên mười bảy quốcgia.

Kopan đang pháttriển mạnh. Trung tâm Mount Everest giờ đây lànhà của hơn 250 tăng ni đang theo học giáo lý Phật theo cách thức tu việntruyền thống.

Rinpoche khôngngừng đi nhiều nơi trong thế giới (mandala) của Ngài, giảng dạy và dẫn dắt hàngngàn đệ tử. Đặc biệt nhất trong số các đệ tử mà Rinpoche đang dẫn dắt cóLamaTenzin Osel Rinpoche, sinh năm 1985 ở Tây Ban Nha, được đức H.H.Dalai Lamachính thức thừa nhận là vị tái sinh của Lama Thubten Yeshe. Giờ đây đến lượtLama Zopa là “còn hơn một người cha, hơn một người mẹ”. Rinpoche chăm lodạy dỗvị Lama trẻ này từng giây từng phút, chuẩn bị cho Lama trẻ này có thể đảm đươngmột khối lượng rất lớn các hoạt động Phật Pháp với tư cách là Lama Yeshe.

Chúng tôi chânthành biết ơn Merry Colony, Alfred Leyens, Connie Miller, Paula Chichester vàRoger Munro đã đóng góp cho cuốn sách này được xuất bản. Xin cầu nguyện chonhững ai đọc Cánh cửa Mãn nguyện nhanh chóng nhận ra tiềm năng tự tại, đạt tới hạnhphúc tối thượng.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 15983)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3685)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6039)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6232)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3956)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8216)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5574)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15533)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10757)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7871)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]