Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Dẫn nhập

05/01/201116:42(Xem: 10025)
1. Dẫn nhập

Đức Đạt Lai Lạt Ma
TU TUỆ
Bản tiếng Anh: Practicing Wisdom - Nhà xuất bản Wisdom
Bản tiếng Pháp: Pratique de la Sagesse - Nhà xuất bản Presses du Châtelet
Bản dịch Việt ngữ: Hoang Phong - Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2008

1
Dẫnnhập

Pháthuy một động lực tinh khiết

Suốttrong quyển sách này, với tư cách một người thầy tinh thần,tôi sẽ cố gắng phát huy trong tôi sự thúc đẩy tinh khiếtnhất mà tôi có thể làm được vì lợi ích của chính quývị, tức những người đọc quyển sách này. Về phần quývị cũng thế, đến gần với những lời giảng huấn bằngtấm lòng thiện cảm và một tâm ý tích cực là một điềuhệ trọng.

Đốivới quý vị độc giả nào là những Phật tử trung kiên,mang hoài bảo đạt đến sự Tỉnh thức tối thượng, thậtlà hệ trọng nếu quý vị biết liên tục cố gắng tìm cáchtrở thành những con người thiện cảm và nhiệt tình. Chủđích đó sẽ đem đến cho những cố gắng của quý vị mộtý nghĩa, giúp quý vị tích lũy được những điều xứng đángđể tạo ra chung quanh quý vị một sức mạnh tích cực. Vìvậy, trong lúc chuẩn bị để đọc quyển sách này, quý vịhãy nương tựa vào ba Vật báu (4) và xác định trở lạimột cách minh bạch lòng thương người của quý vị, quyếttâm của quý vị đạt đến Giác ngộ hoàn hảo vì sự tốtlành của tất cả chúng sinh. Không quy y Tam bảo, cách tu tậpcủa quý vị sẽ không phải là tu tập Phật giáo. Thiếu ướcvọng thương người, quyết tâm đạt được thể dạng củaPhật vì lợi tha, hành vị của quý vị sẽ không thể xemlà hành vi của một môn đệ Đại thừa.

Nếuquý vị nào, trong số nhũng người đọc của tôi, không phảilà những người Phật giáo chuyên cần, xin quý vị ít nhấtcũng nên có một chút quan tâm thật sự về đạo Phật. Sựkiện quý vị theo một truyền thống tôn giáo khác, Thiên chúagiáo chẳng hạn, điều đó cũng không cấm cản quý vị cảmthấy liên hệ đến một vài khía cạnh nào đó về phươngpháp và kỷ thuật của những người Phật giáo xử dụngđể cải thiện tâm linh của họ. Nếu quý vị thuộc vàotrường hợp này, quý vị cũng nên cố gắng chấp nhận mộtthái độ thiện cảm và sự thúc đẩy tích cực trong khi quývị chuẩn bị đọc quyển sách này. Nếu như một vàiphương pháp hoặc kỹ thuật nào mà quý vị thấy có thểghép thêm vào đời sống tinh thần của quý vị, thì quý vịcũng đừng do dự. Nếu như không làm được như thế, tốthơn xin quý vị hãy xếp quyển sách này lại, một cách thậtđơn giản.

Chínhtôi đây, tôi cũng chỉ đơn giản là một nhà sư Phật giáo,ngưỡng mộ và cảm ứng sâu xa trước những lời giáo huấncủa Phật, và đặc biệt trước những người đã thực hiệnđược lòng Từ bi và thấu hiểu về bản thể sâu kín củahiện thực. Tuy không hề có một chút xíu kiêu hãnh nào trongtư thế đứng ra trình bày những lời giáo huấn phong phúvề tinh thần này, nhưng ít ra tôi cũng phải cố gắng làmnhững gì tôi có thể làm được để nhận lấy trọng tráchcủa lịch sử đặt lên vai tôi trong công tác chia xẻ nhữnglời bình giải cá nhân của tôi về những lời giáo huấnnày với một số người càng đông càng tốt.

Cácngười đọc của tôi, nhiều vị cũng có thể mang hoài bảomuốn cải thiện tâm linh mình. Dù rằng người giảng huấncũng cần phải đủ sức nắm vững hoàn toàn những chủ đềđưa ra giảng dạy, mặc dù thế, về phần tôi, tôi cũng khônggiám tự cho mình đã hiểu biết đầy đủ và toàn diện vềnhững chủ đề mà chúng Ta-bàn thảo với nhau hôm nay. Tuynhiên, văn bản mà chúng ta sẽ nghiên cứu liên hệ chính yếuđến học thuyết về Tánh không, một học thuyết mà tôingưỡng mộ hết sức sâu xa, còn hơn thế nữa có thể nóilà một sự ràng buộc tình cảm, vì mỗi lần có dịp làtôi tìm cách suy tư về học thuyết đó. Theo kinh nghiệm hạnhẹp của tôi – ít ra tôi cũng tự cho phép tin là tôi đãđạt được cái kinh nghiệm ấy – chủ thuyết về Tánh khônglà một triết thuyết sinh động, và một khi nắm vững đượctriết thuyết ấy ta sẽ gặt hái được nhiều kết quả.Vì thế tôi nghĩ rằng đó là phẩm tính duy nhất mà tôi đãđạt được, giúp cho tôi dựa vào đó để thuyết giảngvề văn bản của Tịch Thiên.

Trínăng và lòng tin

Khiquý vị quan tâm sâu xa về Phật giáo và quý vị nhất địnhbước vào con đường tu tập tâm linh để khám phá sự phongphú trong những lời giảng huấn của Phật, hoặc trong trườnghợp ngược lại quý vị chỉ mới khởi sự chú ý đến vấnđề này cũng thế, trong cả hai trường hợp quý vị đừngbao giờ để bị mù quáng bằng một thứ đức tin duy nhất– đừng xài hết tiền mặt cho một đức tin đơn thuần.Nếu quý vị bị lôi cuốn vào đó, quý vị có thể gặp nguycơ đánh mất khả năng lý luận của quý vị. Đối tượngcủa đức tin và lòng mộ đạo phải được khám phá bằngnhững kinh nghiệm cá nhân, có nghĩa là bằng khả năng lýluận. Nếu sự khảo sát ấy đưa đến một sự tin tưởngsâu xa, đức tin của quý vị sẽ được nẩy nở. Sự tựtin và đức tin nếu dựa trên lý trí sẽ luôn luôn vững chắcvà có thể tin tưởng được ; nếu ta không xây dựng lòngtin bằng cách vận dụng trí thông minh, thì ta sẽ không cònbiết phải dựa vào những cơ sở nào vững chắc hơn đểxây dựng lòng tin nơi những lời giáo huấn của Phật.

Họchỏi để mở rộng tầm hiểu biết cá nhân của ta về nhữnglời giảng huấn của Phật quả thật là một điều hệ trọng.Long Thọ (Nagarjuna) (5), một vị thầy người Ấn thuộc thếkỷ thứ II, xác nhận rằng đức tin và trí thông minh, cảhai đều là những yếu tố cần thiết cho sự triển khai tinhthần, và đức tin còn có thể được xem trội hơn, như làmột nền móng căn bản vậy. Tuy nhiên, Long Thọ cũng phátbiểu thêm rằng đức tin chỉ đủ sức hướng dẫn sự thăngtiến tinh thần của ta khi nào nó được hổ trợ bởi tríthông minh, trí thông minh là phương tiện giúp ta đủ sứcnhận ra con đường phải theo và trau dồi sự hiểu biết sâuxa. Dù sao, ta không thể để sự quán nhận đơn thuần dừnglại ở cấp bậc hiểu biết và trí thông minh, như thế chưađủ ; nó còn phải thâm nhập vào tim ta và tâm thức ta đểcó thể ảnh hưởng trực tiếp đến những hành vi của ta.Nói cách khác, là nghiên cứu đơn thuần trên mặt trí năngvề Phật giáo sẽ không đưa đến một tác dụng nào trênthái độ và cách cư xử của ta trong cuộc sống.

Vănbản cội rễ

Đốivới Phật giáo Tây tạng, các văn bản cội rễ là các kinhđiển sou-tra và tan-tra, ghi chép lại những lời giáo huấnđích thực của Phật. Ngoài số kinh điển ấy còn phải kểđến các bộ sách Tengyour, đó là kho tàng mênh mông gồm cáctrước tác của các học giả lỗi lạc người Ấn, và hàngngàn những tập sách bình giải do các đại sư thuộc bốntrường phái Phật giáo Tây tạng biên soạn. Văn bản làmnòng cốt cho bài thuyết giảng này mang tựa đề « Sự hiểubiết siêu nhiên » thuộc vào chương IX của tập sách Hànhtrình đến Giác ngộ (Bodhicaryavatara), do một đại sư ngườiẤn là Tịch Thiên thuyết giảng vào thế kỷ thứ VIII.

Tôiđược thụ giáo về văn bản này qua ngài Khounou Rinpoché -Tenzin Gyalsen, ông là một Đại thiền sư và một bậc thầyvề tâm linh đã quá cố. Ông đã dốc lòng tu tập để thựchiện tâm linh Giác ngộ, dựa vào văn bản của Tịch Thiên,và chính ông, ông cũng đã được thụ giáo về văn bản nàyqua một vị Đại sư lừng danh khác là Djé Patrul Rinpoché.

Tôibình giảng tập luận Hành trình đến Giác ngộ dựa vào haicách bình giải trong số những lời bình giải vừa kể trênđây. Cách thứ nhất của Khentchen Kunzang Palden xử dụng thuậtngữ riêng của Ninh-mã phái (Cựu học phái) ; cách thứ haicủa Myniak Kunzang Seunam – vị này tuy là học trò của PatrulRinpoché nhưng lại đứng về phía trường phái Guélougpa –xử dụng thuật ngữ giảng giải của trường phái này. Trongphần thuyết trình của tôi, tôi sẽ trình bày những khácbiệt trong cả hai cách biện giải của hai học giả chuyêngia đó. Ta hãy sẽ xem kết quả biến chuyển như thế nào!



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/02/2013(Xem: 6560)
Hôm nay, Tết Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ, tấtcả quí Phật tử gần xa đều về chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới. Nhân đây chúng tôi cũng nói chuyện và chúc Tết quí vị luôn. Năm Tỵ là năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn.
04/02/2013(Xem: 10138)
Trước khi nhập điệt, 2500 năm trước, Đức Phật đã giảng pháp lần cuối. Bài pháp thoại này đã đưọc ghi lại trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh -Maha Parinibbana Sutta -Great Passing Discourse) và đã được lưu giữ trong Tam Tạng Kinh điển Pali, những thánh điển của Phật giáo. Trong suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật đã chỉ dẫn cho chúng sanh bao giáo lý để đến được con đường giải thoát. Ở giai đoạn cuối đời, Đức Phật muốn nhấn mạnh với các đệ tử của Ngài là cần đem những lời giáo huấn đó áp dụng vào cuộc sống.
02/02/2013(Xem: 7565)
You may be surprised to hear that Most Venerable Thich Quang Do has made it known to President Obama and his Administration that Vietnam needs more than ever the service of VOA/ Vietnamese service. He is the supreme Buddhist Leader in Vietnam under House Arrest.
01/02/2013(Xem: 8284)
Đức Phật không cô lập, xa lánh vua A Xà Thế, mà là mở cơ hội cho vua đến với Đức Phật. Phật giáo cố sự đại toàn chép lời Đức Phật đón vua A Xà Thế: “Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu”. Đốivới trường hợp vương triều A Xà Thế, với một vị vua tàn nhẫn, độc đoán,hiếu chiến, Đức Phật đã tạo môi trường hóa độ như thế. Trường hợp vua AXà Thế là câu trả lời chung cho câu hỏi về mối quan hệ giữa chính quyềnvới Phật giáo trong mọi thời đại. Dù là chính quyền như thế nào, đối với Phật giáo, đó vẫn là mối quan hệ mởcửa, hóa độ, mối quan hệ cho những gì tốt đẹp nhất nẩy mầm, sinh sôi. Bài viết về trường hợp vua A Xà Thế trong quan hệ với Đức Phật và tăng đoànchắc rằng sẽ định hình những nét chính trong bức tranh quan hệ Phật giáo và chính quyền mà chúng ta đang thảo luận.
27/01/2013(Xem: 12234)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần Tài – Thổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
21/01/2013(Xem: 8358)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người. Vả lại thật cũng không tốt nếu chạy theo một tín ngưỡng nào đó rồi sau này lại từ bỏ. Ngày nay, nhiều người rất quan tâm đến đời sống tinh thần mà đặc biệt nhất là Phật giáo, nhưng thường thì họ không suy xét cẩn thận để ý thức mình đang dấn thân vào một lãnh vực tinh thần có những đặc tính như thế nào.
18/01/2013(Xem: 8386)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn được giàu nên họ khổ. Người giàu sợ bấy nhiêu tài sản chưa đủ làm người khác nể phục, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng hay hãm hại mình nên khổ. So ra, cái khổ của người giàu còn
18/01/2013(Xem: 8619)
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan niệm về tính Không – một nội dung quan trọng của kinh Kim Cương. Tính Không (Sùnyatà) là một khái niệm khá trừu tượng: vừa thừa nhận có sự hiện hữu, sự “phồng lên” (ở hình thức bên ngoài) của một thực thể, vừa chỉ ra tính trống rỗng (ở bên trong) của thực thể. Vì vậy, tính Không không phải là khái niệm chỉ tình trạng rỗng, không có gì, mà có nghĩa mọi hiện hữu đều không có “tự ngã”, không có một thực thể cố định.
13/01/2013(Xem: 12325)
Sáu mươi và vẫn còn khỏe mạnh, tôi chỉ mới chập chững bước vào tuổi già. Nên giờ đúng là thời điểm tôi cần tham khảo về vấn đề này để phát triển sự can đảm, vì tuổi già là điều khó chấp nhận. Tuổi già thật đáng sợ. Tôi chưa bao giờ chuẩn bị cho tuổi già. Tôi vẫn hy vọng mình còn có thể sống qua nhiều lần sinh nhật nữa, nhưng lại không chuẩn bị cho sự hao mòn trong quá trình đó. Vừa qua tuổi sáu mươi không lâu, các khớp xương của tôi đã cứng, tóc tai biến mất ở chỗ này lại mọc ra chỗ khác, tên tuổi của người khác tôi không còn nhớ rõ, thì tôi phải chấp nhận những gì đang xảy ra cho tôi.
11/01/2013(Xem: 8542)
BA VÒNG QUAY CỦA BÁNH XE ĐẠO PHÁP cùng sự hình thành của kinh điển và các học phái Phật Giáo
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]