Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài lời của người dịch

05/01/201116:40(Xem: 11201)
Vài lời của người dịch

Đức Đạt Lai Lạt Ma
TU TUỆ
Bản tiếng Anh: Practicing Wisdom - Nhà xuất bản Wisdom
Bản tiếng Pháp: Pratique de la Sagesse - Nhà xuất bản Presses du Châtelet
Bản dịch Việt ngữ: Hoang Phong - Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2008

Vàilời của người dịch

Tựasách là Tu Tuệ, Tuệ là Trí Tuệ hay Tuệ Giác, tiếng Phạnlà Prajna. Người ta thường phân biệt ba loại tu tập : tuhạnh (giữ giới), tu thiền (nhập định) và tu tuệ (quánthấy). Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải,tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sựhiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọivật thể và mọi biến cố, một sự hiểu biết tối thượngcó thể xoá bỏ vô minh để đưa thẳng đến Giác ngộ.

NhưNgài Thupten Jinpa đã trình bày trong phần lời tựa, đây làquyển sách ghi chép lại những lời giảng của Đức Đạt-LaiLạt-Ma tại Pháp về chương IX trong tập Luận Hành Trình đến Giác ngộ của Ngài Tịch Thiên. Vậy nguồn gốc của tậpsách này như thế nào, tại sao lại là chương IX, và NgàiTịch Thiên là ai ?

Sauđây là vài nét tóm lược tiểu sử của Ngài Tịch Thiênvà nguồn gốc tập Hành trình đến Giác ngộ. Tiểu sửcủa Ngài Tịch Thiên, theo như kinh sách ghi chép, có thể phảngphất một vài nét huyền thoại. Trong thời đại của chúngta, dù tin hay không tin những nét huyền thoại ấy nhưng khiđã đọc tập sách của Ngài thì chúng ta không thể nào khôngthán phục và ngưỡng mộ một trí thông minh siêu phàm, mộtcon người ngoại lệ hay đúng hơn là một vị Bồ-tát đãđạt được Giác ngộ. Tập sách Hành trình đến Giác ngộquả thật là một trong những trước tác cổ điển đẹpnhất trong lịch sử Phật giáo, đúng như lời của Ngài ThuptenJinpa trình bày trong phần lời tựa.

TịchThiên (Shântideva) là một vị cao tăng người Ấn, sinh vàokhoảng cuối thế kỷ thứ VII hay đầu thế kỷ thứ VIII,ngày mất thì không ai được biết. Ông là con của vua Kalyânavaraman.Khi còn nhỏ, ông được một nhà tu khổ hạnh truyền cho giáopháp của Bồ-tát Văn Thù (Mansjurhi), ông tu tập rất chuyêncần và đã đắc Đạo. Khi vua cha qua đời, ông nhất địnhkhông lên ngôi kế vị, bỏ trốn vào Tu viện Đại học Na-lan-đà,thụ giới làm một tì kheo. Ông thường thức một mình trongđêm và soạn được hai bộ sách, sau này rất nối tiếng.Bộ thứ nhất là Siksâmuccaya (Bồ-tát học luận), một tậpsách giản yếu về giáo huấn, và bộ thứ hai là Sutrasâmuccaya(Kinh luận), một tập sách giản yếu về kinh điển, tậpsách thứ hai đã thất truyền và ngày nay chỉ còn bản dịchbằng tiếng Hán. Cả tu viện không ai hay biết gì về việcsoạn thảo hai tập sách trên đây của ông. Vì ông ngủ libì suốt ngày nên các vị thầy và các vị đồng tu đềucho ông là người lười biếng, ngu đần và đặt cho ông biệtdanh là bhushuku, có nghĩa là « người chỉ biết ăn, ngủvà tiêu hoá ».

Nhữngngười trong tu viện có ý định muốn tống khứ ông, nênhọ đồng tình dựng lên một đàn thuyết giảng còn gọilà cái ngai, nhưng lại dựng rất cao và rất khó trèo lên.Theo thông lệ, uy tín của người thuyết giảng càng cao thìngai thuyết giảng cũng phải có chiều cao tương xứng. Saukhi đàn được dựng xong, các người trong tu viện mới ônglên ngồi để thuyết giảng. Chưa dứt lời mời thì đã thấyông ngồi chểm chệ trên ngai làm cho mọi người hết sứckinh ngạc. Ông liền cất tiếng giảng về Nhập Bồ-đề Hànhluận (tức tập Hành trình đến giác ngộ) mà Đức Đạt-LaiLạt-Ma hơn mười thế kỷ sau đã đem ra giảng lại cho chúngta hôm nay. Khi Ngài Tịch Thiên giảng đến chương IX và đúngvào lúc ông thốt lên câu này : « Lúc không còn một sự hiệnthực nào hay một sự phi-hiện-thực nào nữa hiển hiện ratrong tâm thức… », và ông chưa kịp dứt câu thì mọi ngườibổng thấy ông bay vọt lên không trung đứng lơ lửng bêncạnh Bồ-tát Văn Thù. Câu giảng trên đây thuộc vào tiết34 của chương IX. Mặc dù trên đàn thuyết giảng lúc ấyđã trống không nhưng người ta vẫn tiếp tục nghe văng vẳngtiếng ông thuyết giảng cho đến câu cuối cùng của tậpluận.

Vìmuốn ghi lại bài giảng của ông, nên mọi người trong tuviện Na-lan-đà đã họp nhau chia thành hai nhóm, họ moi lạitrí nhớ và chép thành hai bản, một bản gồm 700 câu tứtuyệt, một bản gồm 1000 câu tứ tuyệt. Sau đó tu viện gởisứ giả đi tìm ông khắp nơi, và sau cùng đã tìm đượcông và mời ông về chùa. Tuy nhiên, ông chỉ nhận duyệt xétlại hai bản thảo và cho rằng bản 1000 câu tứ tuyệt gầnvới lời giảng của ông hơn. Ông chỉ chỗ cất hai tập sáchcủa ông trong chùa nhưng nhất định không trở về nữa. Ôngtrở thành một người du-già phiêu bạt, và không còn ai biếtông ở đâu. Chỉ nghe tiếng đồn ông thường xuất hiệnđể đấu lý với các vị thầy ngoài Phật giáo thời bấygiờ và thực hiện nhiều phép nhiệm mầu để cứu giúp ngườihoạn nạn khắp nơi. Nhưng về sau thì không còn ai nghe nóiđến ông nữa.

Tuygọi là phép tu Tuệ, nhưng phần kết luận của chương IXcũng như suốt trong những đoạn bình giảng của Đức Đạt-LaiLạt-Ma, Từ bi đã được nhắc nhở không ngừng, nếu Từbi không được xếp lên hàng đầu thì ít ra cũng ngang hàngvới Trí tuệ. Ta không thể nào hình dung một vị Phật vớimột Trí tuệ siêu nhiên nhưng lòng Từ bi lại có giới hạn.

Tôikhông dám tự cho là có thể nắm bắt được hết những gìthâm sâu và cao siêu trong quyển sách này. Nhưng vì tâm nguyệnmuốn được chia xẻ với người đọc một vài hiểu biếtnhỏ nhoi mà tôi có thể lãnh hội được, vì thế tôi đãcố gắng với tất cả lòng nhiệt tâm để phiên dịch mộttác phẩm có thể vượt xa hơn tầm tay của tôi nhiều. Dùcho lời dịch còn non nớt và vụng về đi nữa, tôi cũng xinchắp tay hồi hướng công lao nhỏ nhoi này để cầu xin chothế giới vô thường của chúng ta ít hận thù hơn, hạnhphúc hơn và an bình hơn, cầu xin cho không gian mênh mông trởthành mảnh đất của Trí tuệ vô biên. Lời cầu xin này khôngmang một cảm tính tự phụ nào cả, nó chỉ là một sứcmạnh vượt ra khỏi tim tôi và tâm thức tôi.

HoangPhong
04-10-2007

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/10/2021(Xem: 5180)
Phần này bàn về cách dùng nghỉ (dấu hỏi)/nghỉ làm vào thời LM de Rhodes sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Sau đó khoảng 2 TK, chữ nghỉ lại xuất hiện trong Truyện Kiều qua các dạng chữ Nôm và cũng là một chủ đề gây nhiều tranh luận cho đến ngày nay. Chủ đề này còn cho thấy một khuyết điểm của chữ Nôm là cách đọc không chính xác vì thiếu quy ước (chuẩn hóa): dấu hỏi (nghỉ) hay dấu ngã (nghĩ) khi đọc chữ 擬, 平 đọc là bình hay bằng (td. Cao Bằng, Quảng Bình), 化 đọc là hoa, hóa hay huế chẳng hạn...
26/09/2021(Xem: 4357)
Tết Trung Thu thường rơi vào rằm tháng 8 âm lịch trăng tròn. Ngày đặc biệt trong năm chưa bao giờ trăng sáng, đẹp và tròn như thế.
25/09/2021(Xem: 7041)
Buổi phát chẩn đã thực hiện cho 343 hộ tại 2 ngôi làng nghèo tên là Goswami Vikram and Shambhu Village cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 26 cây số. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 10 ký Gạo và bột Chapati, 1 bộ áo Sari, 2 ký đường, dầu ăn, muối, bánh ngọt cho trẻ em và 100Rupees tiền mặt (Mỗi phần quà trị giá: 14usd.55cents x 343 hộ = ... Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn). Xin mời quí vị hảo tâm xem qua một vài hình ảnh tường trình..
23/09/2021(Xem: 8885)
Kính mời quý Phật tử xem thông báo này của Moreland City Council (nhân viên council vừa đến chùa nhờ thông báo), nếu quý vị chưa chích Covid-19 vaccine xin liên lạc booking số: 1800 675 398 và đến Fawkner Community Hall, 79 Jukes Rd, Fawkner (cách Tu Viện Quảng Đức một con đường, 5 phút đi bộ) vào các ngày 27, 28 và 29 tháng 9 năm 2021 để được chích vaccine. Từ 12 tuổi đến 60 tuổi sẽ được chích Pfizer; từ 60 tuổi trở lên sẽ được chích AstraZeneca. Cầu nguyện đại dịch sớm tận trừ và mọi người vui khỏe và bình an. Nay xin thông báo, Thích Nguyên Tạng Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức 🙏🙏🙏🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
23/09/2021(Xem: 4811)
Có một câu chuyện tu thân mà tôi học từ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ Đẳng (Tiểu Học) khi tôi còn mười, mười một tuổi tức cách đây 70 năm tại Hải Phòng mà tôi vẫn còn nhớ. Đó là bài Cách Sửa Mình như sau:
20/09/2021(Xem: 6232)
Trí tuệ và từ bi có phải chỉ riêng nhân loại mới có? Hay là, loài vật cũng có trí tuệ và từ bi, nhưng ở mức sơ khai hơn? Cuộc nghiên cứu mới đây về heo rừng cho thấy những bất ngờ về mức độ cao của khôn ngoan và tình thương nơi một trường hợp khảo sát.
19/09/2021(Xem: 6912)
Hai năm trước, khoảng tháng 11 năm 2019, một người bạn từ bên kia nửa vòng trái đất cho tôi biết vừa thấy “tuyển tập” Thấp thoáng Lời Kinh, tập hợp một số sách viết về Kinh Phật của tôi xuất hiện trên Thư Viện Hoa Sen và một số trang mạng khác. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng nghĩ có thể là do anh 5 Hiền, Nguyễn Hiền-Đức đây rồi chớ không phải ai khác. Bởi vì người bạn 5 Hiền rất dễ thương này mấy năm trước đã mang đến tặng tôi nhiều “tuyển tập” của tôi do anh có nhã hứng thực hiện mà không “trao đổi” trước chút nào cả, khiến mình không khỏi giật mình.
17/09/2021(Xem: 4769)
Tăng đoàn Phổ Môn và Suối Từ (Texas) dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Thích Thông Hội và Thiền Sư Thích Diệu Thiện đến viếng thăm, tụng kinh, ban pháp thoại và thiền hành với Ni chúng Hương Sen (Riverside, California) vào thứ hai ngày 13 tháng 09 năm 2021. Chương trình bắt đầu bằng bài kinh Bát Nhã do tăng đoàn Suối Từ và Phổ Môn tụng. Chùa Hương Sen tụng bài Kinh Tám Điều Giác Ngộ của Bậc Đại Nhân và Lục Hòa. Sau đó, Thiền sư Thích Thông Hội ban bài pháp thoại nói về tên của Chùa Hương Sen với ý nghĩa giác ngộ như sau:
16/09/2021(Xem: 4390)
Qua Covid-19, đến biến thể Delta, hoành hành khốc liệt, đã “minh bạch” nhiều vấn đề, khiến cho toàn thế giới suốt hai năm (2020-2021) phải chịu nhiều khủng hoảng về nhiều mặt và đầy hoang mang lo sợ. Các nhà khoa học cũng phải cuốn cuồng nghiên cứu, thử nghiệm, các nhà lảnh đạo hàng đầu thế giới với binh hùng tướng mạnh, tiện nghi vật chất hiện đại, thực hiện nhiều biện pháp, nhưng cũng chưa có gì khả quan, hữu hiệu, để ngăn ngừa dịch bệnh, mà phải thực hiện với một “thông điệp” được lặp đi lặp lại: “Bịt miệng, thường rửa tay và ở yên một chỗ” thì mới mong được an ổn. Cách đây hơn 26 thế kỷ, sau khi chứng ngộ dưới gốc cây Bồ Đề tại Bodh Gaya, Đức Phật đã biết, nhìn thấy và hiểu tận tường sự vận hành của vũ trụ, nên bài Pháp đầu tiên tại Vườn Lộc Uyển là Tứ Diệu Đế (TDĐ) (Khổ - Tập - Diệt – Đạo) đã nói rõ lên được thực tế của “trần gian” chúng ta. TDĐ chỉ rõ sự thật về cuộc sống khổ đau của con người, về nguồn gốc nguyên nhân dẫn đến đau khổ, về sự chấm dứt đau khổ và phương pháp t
12/09/2021(Xem: 5675)
LUẬN ĐIỂN CỦA ATISHA súc tích nhưng bao hàm rộng rãi đem những vấn đề cốt yếu đến với nhau của những giáo huấn của ba lần Chuyển Pháp Luân, như đưa ra một cách tóm tắt trong chương hai. Nó được sáng tác ở Tây Tạng bởi một đạo sư Ấn Độ là Atisha Dipamkara theo lời thỉnh cầu của Jhangchup Wö, sau đó là người cai trị miền tây Tây Tạng. Jhangchup Wö đặc biệt thỉnh cầu một giáo huấn thật sự nổi tiếng vì sự thậm thâm của nó cũng như trong sáng của nó, vì thế nó có thể làm lợi lạc cho dân tộc Tây Tạng nói chung. Atisha súc động sâu xa và hoan hỉ vì sự chân thành thỉnh cầu của Jhangchup Wö, và đáp ứng lời thỉnh cầu ấy ngài đã sáng tác ra luận điển súc tích này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]